XUẤT THÂN
Nguyễn Khoa Đăng (1690- 1725) sinh tại huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế). Trong bộ Quý hương tiên nguyên dã sử của làng Triệu Tường, tỉnh Thanh Hóa có đoạn chép về dòng họ Nguyễn Khoa như sau: Ông Nguyễn Ư Kỳ, nguyên Thái phó triều Lê và là cậu ruột của Nguyễn Hoàng.
Năm 1557, Nguyễn Ư Kỳ theo Nguyễn Hoàng vào trấn miền Nam, khi đi có dẫn theo một người con nuôi mới lên sáu tuổi tên là Nguyễn Đình Thân (1553 – 1633), vốn là người làng Trạm Bạc, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là tỉnh Hải Dương). Nguyễn Đình Thân sau đó làm tướng trải hai triều chúa là Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên; con cháu ông thay nhau làm quan cho các chúa Nguyễn.
Nguyễn Đình Khôi (1594 – 1678), là con ông Thân, được chúa ban tước Thuần Mỹ nam. Ông Khôi có người con là Nguyễn Khoa Danh được ban tước Cảnh Lộc bá. Ông Danh có người con trai duy nhất là Nguyễn Khoa Chiêm làm Thượng thư bộ Lại, giỏi văn thơ. Năm 1690, Nguyễn Khoa Chiêm sinh người con thứ ba, đặt tên là Nguyễn Khoa Đăng, được mô tả là người thông minh từ nhỏ. Mười tám tuổi, ông ra làm quan, lần lượt trải đến chức Nội Tán kiêm Án sát sứ, Tổng tri Quân quốc Trọng sự, tước Diên Tường hầu. Ông nổi danh là người có mưu lược, trung thực và đức độ.
Sử liệu cũng rất nhiều giai thoại mô tả ông có tài xử án, trấn áp đạo tặc, điển hình như: bắt cướp ở Truông Nhà Hồ, phá Tam Giang, trộm dầu, trộm giấy…
PHÁ CƯỚP TRUÔNG NHÀ HỒ
Truông Nhà Hồ là vùng rừng rậm, đoạn nằm giữa xã Vĩnh Chấp, Vĩnh Linh, Quảng Trị và xã Sen Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình ngày nay. “Truông” nghĩa là vùng đất hoang nhiều cây cỏ. Khu vực này rộng lớn và thời đó vốn là xào huyệt của băng cướp lớn và nguy hiểm, khiến dân chúng trong vùng không được yên thân. Vì đây là tuyến đường giao thông chính nên các chuyến hàng của Triều đình và địa phương thường xuyên qua lại. Nhiều chuyến bị cướp tấn công mà quan lại địa phương không làm gì được, cũng không tìm được hang ổ của bọn cướp.
Chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Nguyễn Khoa Đăng đi kinh lược để dẹp yên bọn cướp này. Nguyễn Khoa Đăng bèn cho xe chở lúa đi ngang qua Truông, dưới đáy xe có khoét lỗ để lúa rãi xuống đường làm dấu. Bọn cướp xông ra cướp và kéo xe về sào huyệt. Nhờ kế ấy mà Nguyễn Khoa Đăng có thể cho quân vây bắt, từ đó Truông Nhà Hồ mới được yên.
PHÁ TAM GIANG
Phá Tam Giang là một địa phận ở Thừa Thiên Huế, là một trong những tuyến đường thuỷ chính đến kinh thành Huế. Đây là giao điểm của các con sông, cửa ra biển lại hẹp nên có nhiều chổ nước xoáy, mỗi khi có gió to sóng lớn thì dễ bị lật thuyền. Khi ông kinh lý đến vùng này và cùng các quan sở tại quan sát Phá Tam Giang, ông nói rằng:”Mọi chuyện rắc rối ở Phá Tam Giang đều do con sông dữ như thuồng luồng này. Chính bờ nó cao, nước lại sâu, tạo thành cái phễu hút gió vào thành giông tố, nhấn chìm thuyền đấy. Phải bắt nó thuần phục thôi”!
Nói rồi ông cho người đào bờ ruộng mở rộng sông đi đến nơi thấp. Thế nước sâu được giảm xuống. Từ đó thuyền của người dân qua lại không còn lo bị đắm nữa. Nhớ ơn ông, người dân có câu:
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ Truông Nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ nội tán dẹp yên
Đường vô muôn dặm quan san
Anh vô anh được bình an em mừng
Có một số vụ án, mặc dù quan địa phương cũng bó tay nhưng ông lại xử một cách thần kỳ nên người dân gọi ông là Bao Công.
VỤ ÁN RUỘNG DƯA
Án sát xứ Nguyễn Khoa Đăng đến thị sát một vùng nọ, thì thấy quan huyện đang chữi mắng một người đàn bà. Đến hỏi thì ông được biết ruộng dưa của bà này bị xắn nát hết cả gốc đúng vào độ dưa đang ra quả. Kêu quan thì quan nói không đủ bằng chứng. Quán Án sát xuống ruộng rồi ra lệnh lập tức cho thu hết xẻng của các người trong làng, và ra lệnh ai nấy biên tên vào xẻng. Rồi sai người lấy lưỡi liếm vào xẻng thì thấy một cái xẻng có vị đắng. Đem tra xét người chủ xẻng, quả nhiên người ấy phải nhận tội đã phá hủy dưa của láng giềng và bị chịu phạt.
ĐÒI TIỀN NỢ CỦA HOÀNG THẤT
Nguyễn Khoa Đăng làm chức quan Nội tán lập được công lao, được chúa Nguyễn tin tưởng, giao cho ông kiêm thêm chức Án Sát Sứ. Ông nhận thêm chức, ra quy ước, định lại luật lệ. Một hôm ông tra dổ sách thì thấy số bạc trong kho không khớp với sổ sách. Ông gọi quan coi kho đến hỏi thì vị quan này nói là Hoàng thân quốc thích mượn không trả.
Khi ông hỏi sao không đòi thì quan coi kho đáp:Bẩm sao đòi được ạ! Cho người đến, năm bẩm, mười bái, mãi mới được vào hầu. Các mệ,các ông hoàng bà chúa đỏng đảnh nói:”Tạ nợ nhà Chúa, chứ ta nợ gì ngươi. Chúa với ta là chổ tình thân, nỡ nào đòi mấy món quèn này”! Tôi nói lại, nếu không đòi được Chúa sẽ trị tội, họ lại bảo:”Lo gì, chúng ta mỗi người nhận cho một ít, ngươi có lấy đâu, mà ta có chịu trả đâu mà có tội!”
Nguyễn Khoa Đăng mang sổ bạc vào phủ Chúa mà nói rằng:” Hoàng thân quốc thích quen tiêu xài xa xỉ rồi. Gấm lụa phải Hàng Châu mới dùng.Đồ trong nhà phải gốm Minh gốm Thanh mới quý. Một viên ngọc hàng nghìn lượng tranh nhau mua, trong khi một nghìn lượng có thể được một nghìn bộ áo giáp cho quân lính. Nợ nước thì phải đòi. Các ông hoàng, bà chúa có trả thì mới tiết kiệm, bớt hoang phí được. Phép tắc phải thi hành từ người hoàng tộc, người nào càng thân thiết với Chúa càng phải đòi trước. Xin Chúa ban lệnh cho.” Chúa đồng ý thi hành.
Nguyễn Khoa Đăng hiểu rằng, để đòi được nợ thì phải làm từ cao xuống thấp, nên bắt đầu từ người thân thích quyền cao nhất. Ông thấy người nợ nhiều và thân thiết với Chúa nhất là chị ruột của Chúa tức Trưởng công nữ, suốt 5 năm trời nợ chồng chất mà không trả. Ông bèn cho người đòi lúc kiệu của Trưởng Công nữ ra khỏi phủ thì chặn lại đòi nợ. Vụ việc làm Trưởng công nữ giận và khóc với Chúa, kể tội của quan Nội tán. Chúa nói rằng việc nước phải thi hành từ người thân thích nhất mới có hiệu quả, mới làm gương cho kẻ khác. Rồi dùng tiền riêng của mình đưa cho chị để trả nợ.
Khi biết được tin này và chuyện nhà Chúa bênh quan Nội tán, vì thế mà tiền được trả về nên không ai nợ nữa. Xưa kia các quan đều e dè người nhà của Chúa, chỉ có Nguyễn Khoa Đăng không sợ, cho thấy ông không chỉ tài năng đức độ mà còn không sợ cường quyền. Sử nhà Nguyễn cũng chép ông là người tính tình nghiêm khắc, ngày thẳng, không nể kẻ quyền thế. Tất nhiên nhờ Chúa ủng hộ nên ông mới có đất dùng võ ở Đàng Trong.
CUỐI ĐỜI
Nguyễn Khoa Đăng có vợ là bà Phạm Thị Tý, sinh 4 con trai và một con gái. Ông có nhiều con cháu làm nên danh phận, nổi bật nhất là Nguyễn Khoa Toàn(1724-1789), võ tướng đời chúa Nguyễn Phúc Thuần; làm quan trải đến chức Tham chính, coi bộ Hộ và bộ Binh, khi mất được tặng Vô tích Thượng Khanh.
Nguyễn Khoa Đăng mất 29/04/1725 thọ 35 và làm quan được 17 năm. Ông được an táng tại Quảng Trị. Sau, con trưởng ông là Nguyễn Khoa Trung đã cùng dòng họ đem hài cốt của ông về cải táng trong khu nghĩa địa riêng của dòng họ Nguyễn Khoa ở thôn Tứ Tây, xã Thuỷ An, Huế. Toàn thể khu lăng bộ này được Bộ Văn hoá thông tin xếp vào hạng di tích vào năm 1993.
– Ảnh : tạo hình Nguyễn Khoa Đăng của NSND Hoàng Dũng.
-Từ điển nhân vật lịch sử-
-Đại Nam liệt truyện-