Công chức mất việc khi sáp nhập không được hưởng trợ cấp thất nghiệp, vì sao?
Thực hiện chủ trương sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện, sắp xếp cấp xã theo Kết luận 128 của Bộ chính trị, sẽ có không ít người lao động làm việc trong các đơn vị sự nghiệp hành chính, sự nghiệp công lập nghỉ việc. Nhiều người đặt câu hỏi, theo quy định pháp luật hiện hành công chức, viên chức nghỉ việc tại các đơn vị phải sáp nhập, tinh gọn sẽ được chi trả chế độ như thế nào, có được nhận trợ cấp không?
Điều 43, Luật Việc làm 2013 quy định đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp là nhóm lao động làm việc theo hợp đồng ngắn hạn, dài hạn hoặc lao động thời vụ nhưng có thời gian làm việc từ 3 tháng tới 12 tháng.
Công chức sẽ không được nhận trợ cấp thất nghiệp khi mất việc do biên chế và hưởng lương nhà nước. Ảnh: N.T (lao động hưởng trợ cấp thất nghiệp tại TTDVVL Hà Nội)
Theo Luật Cán bộ, công chức 2008, được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi 2019, công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy, công chức không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp do công chức làm việc trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước mà không phải làm việc theo hợp đồng lao động. Vì vậy, nghỉ việc thì công chức sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Tuy không được hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng khi thôi việc công chức sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc và các quyền lợi BHXH theo pháp luật quy định tại Nghị định 67 của Chính phủ sửa đổi Nghị định 176 /2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Dù không được nhận trợ cấp thất nghiệp, nhưng công chức nghỉ việc có thể được hưởng các quyền lợi sau:
Được hưởng trợ cấp thôi việc bằng 0,8 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng tính hưởng trợ cấp thôi việc nếu nghỉ việc trong vòng 12 tháng; trợ cấp 0,4 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng hưởng trợ cấp thôi việc nếu nghỉ việc từ tháng 13 trở đi.
Được trợ cấp 1,5 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Được hưởng trợ cấp 3 tháng tiền lương để tìm việc làm.
Như vậy, công chức nghỉ việc không được hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc và các quyền lợi BHXH theo pháp luật quy định, cụ thể là theo Nghị định 67.
Viên chức có được nhận trợ cấp thất nghiệp không?
Điều 2 Luật Viên chức 2010 cũng nêu rõ, viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Như vậy theo các quy định tại Điều 43 Luật Việc làm 2013 thì viên chức theo diện ký hợp đồng hưởng lương từ đơn vị sự nghiệp không phải lương từ ngân sách nhà nước vẫn là đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp và khi nghỉ việc viên chức sẽ được nhận trợ cấp thất nghiệp.
Điều 50 Luật Việc làm quy định, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng được quy định như sau: Người lao động được hưởng bằng 60% mức bình quân tiền lương hàng tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
Viên chức ký hợp đồng, không hưởng lương từ ngân sách được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Ảnh: N.T
Trong đó, mức hưởng tối đa hằng tháng không quá 5 lần mức lương cơ sở tại thời điểm chấm dứt hợp đồng đối với trường hợp người lao động thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.
Mức hưởng tối đa hằng tháng không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp người lao động thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quy định. Lao động được hưởng tối đa là 12 tháng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp.
Ngoài ra, Luật Việc làm còn quy định, người lao động có thể hưởng trợ cấp thất nghiệp tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Các văn bản luật hiện hành cũng quy định, viên chức được giải quyết chế độ cho về nghỉ hưu trước tuổi theo Nghị định 67 thì sẽ không được nhận trợ cấp thất nghiệp từ ngân sách nhà nước và chỉ được nhận các khoản trợ cấp.
Như vậy, chỉ có nhóm viên chức làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập, không hưởng lương từ ngân sách nhà nước mới đủ điều kiện để nhận trợ cấp thất nghiệp khi mất việc.
Hiện tại Dự thảo Luật Việc làm đang được lấy ý kiến để trình quốc hội tới đây cũng điều chỉnh một số nội dung liên quan như: Thời gian (số tháng hưởng) hưởng trợ cấp thất nghiệp; số tiền đóng BHTN; thưởng với nhóm đóng BHTN mà chưa hưởng trợ cấp… Dự kiến, Dự thảo Luật sẽ được xem xét và thông qua vào kỳ họp thứ 9 tới đây.