Cải cách quân sự Marius – Có phải Quân đội La Mã toàn quân chuyên nghiệp?

Cải cách quân sự Marius – Có phải Quân đội La Mã toàn quân chuyên nghiệp?
Lâu nay các fan cuồng La Mã của nhóm luôn bảo quân đội La Mã trong suốt chiều dài lịch sử đều là quân tinh nhuệ, còn Hán chỉ là quân nông dân.
Nhưng sự thật có phải vậy?

Thế kỉ II TCN, Roma đã đánh bại đế chế Macedonia, hủy diệt đế quốc hàng hải Carthage, đồng thời đánh tan quân đội của đế chế Seleucid (*) 1 trận lớn.

Tuy nhiên đối thủ của họ, các bộ lạc Germanic đều đáng gờm hơn các quốc gia văn minh kia nhiều. Với thể lực cao lớn, to xác, thiện chiến hơn dân Latin, công nghệ luyện thép Noric tiên tiến nhất thế giới đương thời. Cùng các chiến thuật dựa vào rừng núi để phục kích, đánh tỉa, khi kẻ thù mệt mỏi thì dồn quân đánh 1 trận lớn. Họ khiến cho người La Mã khốn đốn không ít lần.

Chiến tranh Cimbrian nổ ra do các bộ lạc Germanic là Cimbri, Teuton, Cambrone,… dẫn khoảng 300.000 quân dân tràn vào đất La Mã, họ giáng cho quân La Mã nhiều thất bại thảm hại. Đặc biệt trong trận đại chiến Arausio, 120.000 quân La Mã bị liên minh các bộ lạc Germanic đánh cho đại bại.

Đây là 1 cuộc chiến tồi tệ cho người La Mã chẳng kém gì chiến tranh Punic lần hai 100 năm trước đó. 200.000 nhân lực để làm quân nhân của họ bị giết gần hết, mất gần như toàn bộ các vũ khí, trang bị quân sự quan trọng và đặt toàn bộ bán đảo Ý vào thế dễ bị tổn thương trước cuộc tấn công tiếp theo của người Germanic.

Nếu không thay đổi sớm và cứu Roma khỏi tình thế hiểm nghèo này, việc La Mã diệt vong 1 cách bi hài không phải bởi các đế chế hùng mạnh nhất thế giới (Carthage, Macedonia, Seleucid) mà bởi các bộ lạc man rợ, vô danh tiểu tốt đến từ Bắc Âu chỉ là chuyện 1 sớm 1 còn.

Trong lúc này, cứu tinh của Cộng Hòa La Mã đã xuất hiện, đó là Gaius Marius. Vừa giành chiến thắng vang dội trước người Numidia, ngay lập tức Marius được bầu làm tổng chỉ huy tối cao của quân đội La Mã (năm 105 TCN). Ông bắt tay vào cải cách quân đội la mã và thay đổi vinh quang của đế chế 1 lần và vĩnh viễn:
Trước khi Marius cải cách, muốn gia nhập quân đoàn La Mã bạn phải tự trang bị vũ khí, giáp trụ cho mình. Chưa hết, bạn còn phải là công dân La mã và sở hữu tài sản có giá trị 3500 đồng bạc (sesterces) trở lên. Quy định ngặt nghèo này đã hạn chế số lính chính quy của La Mã khiến họ thiếu hụt quân số trầm trọng khi lãnh thổ mở rộng quá mức.

Quân đội La Mã bao gồm các binh chủng:

  • Velites – Những chiến binh thuộc tầng lớp nghèo nhất xã hội La Mã, thường là những công dân còn rất trẻ. Họ thậm chí còn không đủ tiền để mua 1 cái khiên, giáp hay mũ, kiếm. Họ thường mặc áo vải chạy trước đại quân và ném lao vào mặt quân địch, sau đó chạy thật nhanh để núp vào sau quân mình. Những người này chẳng thể hy vọng họ giữ vững vị trí hay đảm nhận trách nhiệm gì quan trọng.
  • Hastati (lính cầm giáo) – công dân hạng 4 tham gia quân đội. Đủ tiền để mua 1 miếng giáp đồng trước ngực, 1 cây kiếm/ hoặc giáo, khiên gỗ, mũ trụ. Họ sẽ là quân tiên phong đầu tiên trong đại quân La Mã ở trung quân. Trong các trận chiến, những người này bị giết hại nhiều nhất do đảm nhận vị trí chủ lực mà trang bị quá sơ sài của họ. Lý do duy nhất khiến họ dám đi đầu chiến tuyến là khả năng thăng cấp lên tầng lớp cao hơn trong chiến tranh và khi hòa bình.
  • Principes – công dân đẳng cấp thứ 3, những người đủ khả năng mua những bộ giáp, mũ trụ đắt tiền, khiên tốt cùng kiếm/giáo. Họ đứng sau những lính Hastati, và đợi những lính Hastati bị giết gần hết mới bắt đầu vào trận.
  • Triarii – binh chủng cao cấp nhất của cộng hòa La Mã. Trang bị đắt tiền hơn cả Principes và chiến đấu theo đội hình tường giáo hoplite (bộ binh nặng Hy Lạp) đôi khi ngoài quý tộc yêu cầu cả cựu binh. Đứng ở hàng cuối cùng của đạo quân. Khi các binh chủng La Mã khác bị đánh tan hết, những tay quý tộc này mới bắt đầu vào dọn dẹp tàn cuộc. Nói tóm lại là khi bạn đã giàu và có thế lực thì bạn là bố thiên hạ, bắt nhân dân chết thay cho bạn, không cần mó tay vào đánh rồi khi thắng trận thì của cải cướp được, bạn được hưởng đầu tiên.
  • Equites – Những công dân giàu có đủ tiền mua ngựa, vũ khí yêu thích là giáo dài và lao. Họ thường hay lợi dụng độ cơ động để phi lao vào quân giặc rồi chạy hoặc đánh tạt sườn, bọc hậu đám khinh binh kẻ thù. Rồi khi kẻ thù vỡ trận thì truy kích bắt tù binh, hoặc tàn sát.
Về bản chất, quân đội Roma lúc này phần lớn là những anh nông dân bị gọi đi nghĩa vụ chiến đấu. Sau khi đánh trận xong, quân đội giải tán thì các anh lại trở lại với việc đồng ánh. Phần còn lại là dân binh địa phương, lính đánh thuê, chỉ có 1 phần là bộ binh nặng nhà nghề.

Chiến thuật, đội hình bộ binh thì đánh theo kiểu triplex acies (3 hàng chính):

  • Lính cầm giáo (Hastati) là tuyến quân kém tin cậy gồm những người lính trẻ, ít kinh nghiệm nhất. Đây là hàng quân sẽ xung trận sau khi kỵ binh và bộ binh nhẹ trút tên, lao, đạn lăng đá để mở màn làm rối loạn đội hình đối phương. Tất cả tiểu đoàn sẽ tiến đến gần đối phương và khi còn cách khoảng 30 m thì phóng lao, khi đối phương đang choáng váng vì thương tích, hastati xông vào, với khiên và đoản kiếm/ hoặc giáo, họ dễ dàng xâm nhập vào đội hình địch, tấn công như vũ bão. Nếu trận đánh phát triển thuận lợi, hastati sẽ tiếp tục thọc sâu trong khi principes tiến theo sau. Trường hợp gặp sức kháng cự mạnh, hastati rút lui qua khoảng trống giữa các tiểu đoàn principes đang tiến lên để tạo thành đợt tấn công mới nhằm phá vỡ phòng tuyến đối phương.
  • Lính chủ lực (Principes), là tuyến quân có binh lính đang ở độ tuổi lý tưởng (trên dưới 30 tuổi) đóng vai trò chủ lực của quân đoàn. đi cùng hastati.
  • Lính tuyến ba (Triarii) là những người lính kỳ cựu, chỉ tham chiến trong trường hợp cần thiết gần cuối trận chiến để dứt điểm hoặc bảo vệ cho một cuộc rút lui có trật tự. Triarii được trang bị mũ trụ, giáp rất nặng (áo lưới kết hợp với các miếng thép lamellar dát lên), khiên chữ nhật che nửa người, kiếm ngắn và chủ yếu dùng một loại giáo dài trung bình, tuy ngắn hơn thương của bộ binh nặng (hoplite) Hy Lạp nhưng cũng đủ để thiết lập một đội hình Phalanx cùng với bức tường khiên chắc chắn làm nản lòng đối phương đang truy kích những hastati và principes đang thua chạy.
Lúc này, các tầng lớp tinh hoa La Mã để thiết lập đội quân tương tự đã bị người Germanic giết sạch.
Marius ngay lập tức bãi bỏ quy định về tài sản này. Ông cho phép dân thường được gia nhập quân đoàn. Giờ đây những người nghèo nhất cũng có vinh dự trở thành lính chuyên nghiệp. Marius đề nghị viện nguyên lão trả tiền để mua vũ khí và áo giáp cho họ, cho họ một mức lương tối thiểu, ngoài ra còn có phần chia từ những vùng đất mà La Mã xâm lược thành công.
Chính sách mới đã đánh động vào lòng dân La Mã, khiến họ nô nức gia nhập quân đoàn mới của Marius. Trước đây sau khi hết một chiến dịch, quân đoàn giải tán, còn giờ đây họ phải phục vụ tối thiểu 25 năm. Lần đầu tiên trong lịch sử, La Mã có quân đội thường trực, chính quy, tinh nhuệ. Giờ đây, quân đoàn không còn là nơi dành cho người giàu bàn việc binh đao, mà là dành cho người tứ cố vô thân kiếm kế sinh nhai và địa vị xã hội. Việc buộc chặt giữa binh và tướng này khiến cho quân sĩ trung thành tuyệt đối với tướng lĩnh. Đồng thời tướng lĩnh phải trả lương cho binh lính dưới quyền. Điều này cũng dẫn đến những cuộc nội chiến liên miên đồng thời hủy diệt nền cộng hòa La Mã.
Cách chỉ huy quân đoàn cũng được thay đổi triệt để. Hệ thống tiểu đoàn cũ được dùng trong chiến tranh Jugunthien năm 109 TCN bị loại bỏ không thương tiếc. Ngoài ra Marius thẳng tay loại bỏ 4 trong 5 biểu tượng của: Minotaur (người trâu), ngựa, sói và heo rừng. Giờ đây, chỉ còn một biểu tượng duy nhất: Đại bàng (Aquila).
Từ đó về sau, đại bàng trở thành biểu tượng duy nhất của quân đoàn. Sau khi loại bỏ 4 biểu tượng trên, quân đoàn thành lập các trung đoàn (cohor) để thay thế hệ thống cũ. So với tiểu đoàn cũ gồm 120 lính chính quy, giờ đây một trung đoàn bao gồm 600 người, gộp từ 6 bách binh đoàn. 480 người là lính chính quy, còn 120 người làm hậu cần (người hầu, thợ rèn, thợ vũ khí…)
Đơn vị nòng cốt của quân đoàn Rome chính là bách binh đoàn, được chỉ huy bởi bách binh trưởng. Bách nhân đội này bao gồm 100 người, 80 lính chính quy và 20 người phục vụ hậu cần. Không rõ ai là chỉ huy chính của trung đoàn, có lẽ là bách binh trưởng có thâm niên nhất hoặc 6 người cùng thảo luận chỉ huy trung đoàn. Ngoài ra, đơn vị nhỏ nhất là thập nhân đội (Contubernium), được chỉ huy bởi thập nhân trưởng (Decanus):gồm 8 lính và 2 người hậu cần.Mười thập nhân đội gộp lại thành bách nhân đội. Sáu bách nhân đội gộp thành một trung đoàn. Mười trung đoàn gộp lại thành một quân đoàn gồm 6000 người trong đó 4800 lính chính quy và 1200 người thuộc đơn vị hậu cần.
Giờ đây Marius hợp ba binh chủng này thành một binh chủng bộ binh duy nhất với trang bị gần giống như Principes. Đồng thời khoảng cách đội hình giữa các trung đoàn cũng được dãn ra so với trước. Điều này cũng khiến cho binh sĩ đỡ hỗn loạn và sợ hãi hơn so với trước đây. Đội hình này còn khiến binh lính dễ dàng rút lui mà không bị vỡ trận. So với đội hình phalanx là một cải tiến vượt bậc.
Giờ đây lính La Mã được trang bị 2 thanh lao (pilum), một đoản kiếm hai lưỡi (gladius), áo giáp lưới (lorica hamata) về sau xuất hiện thêm áo giáp tấm (lorica segmentata), mũ trụ kim loại và khiên hình chữ nhật uốn cong (scutum). Thanh lao được cải tiến đặc biệt hơn. Trước đây cây lao được đóng bằng hai đinh tán cực chắc chắn, giờ đây đinh tán phía dưới được thay bằng gỗ. Sau khi đâm vào khiên của đổi thủ, cái khóa gỗ sẽ vỡ ra khiến cho tấm khiên quân thù bị vướng víu, coi như quân địch mất đi tấm khiên. Nếu ném lao đi, quân thù cũng ko thể dùng lao ném trả lại, do lao đã mất đi phần lưỡi.
Thoạt nhìn 1200 người làm công tác hậu cần có vẻ khá nhiều, nhưng Marius đã tính toán cực kì hợp lý. Chiến tranh không phải là trò chơi, nó là một cuộc chiến lâu dài và bên nào có ưu thế hậu cần sẽ dễ thắng hơn rất nhiều. Trước đây, lính la mã đi trước, quân lương đi sau. Giờ đây, Marius ra lệnh cho binh sĩ của ông phải tự mang theo đồ nhiều nhất có thể. Việc này giúp tăng cường thể lực của binh sĩ, đồng thời tăng tốc độ hành quân làm quân địch bất ngờ. Sau này người La Mã tiếp tục kéo dài thêm những baggage train để tăng khả năng tiếp tế. (Logistics of the Roman Army at War)

Ngoài ra, người La Mã còn tiếp nhận rất nhiều các binh chủng ngoại tộc như: lính lăng đá Balearic, cung thủ xứ Cretan và lính bộ binh Celtiberian, kỵ binh Numidia… Các đội quân Auxiliary dùng giáo, rìu làm vũ khí chính.

Với chiến thuật vượt trội và các quân đoàn mới mạnh mẽ hơn hẳn, Marius thắng trận Aquae Sextiae và Vercellae vào năm 102 và 101 trước Công nguyên.

Kết thúc chiến tranh Cimbrian với thắng lợi vang dội của người La Mã. Các bộ lạc tràn vào Ý hoặc bị tàn sát, hoặc bị bắt làm nô lệ.

Trước đây, sau một chiến dịch lớn, quân đoàn phải giải tán, giờ đây quân đoàn trở thành một đơn vị lính chuyên nghiệp, và các cựu binh được ở lại truyền lại kinh nghiệm cho các lính mới, ai chứng minh được bản lĩnh thì chắc chắn được thăng sĩ quan các cấp. Đây chính là tiền đề để quân đội La Mã trở thành bá chủ thế giới thời cổ đại sau này.

Trở lại với chủ đề chính, trước năm 107 tcn, khi chưa có cải cách Marius. Quân đội của Hán Vũ Đế đương thời được chăm chút tận răng, thay thế quân chủ lực bán chuyên bằng quân chuyên nghiệp. Huấn luyện bài bản, tăng cường huấn luyện kỵ binh, thậm chí thuê hẳn kỵ binh Hung Nô nhánh khác về đánh cho mình.

100.000 quân bán chuyên La Mã bao gồm dân binh, lính nghĩa vụ, đánh thuê,… vs 100.000 quân chính quy hạng nặng (nỏ binh, kích, kỵ binh) của nhà Tây Hán thì sẽ ra sao nhỉ? Kết quả thế nào mấy anh fan La Mã tự trả lời nhé!

(*) Đế chế Seleucid: là 1 đế quốc Hy Lạp Hóa tuyên bố độc lập tách ra từ đế chế Macedonia sau khi Alexander đại đế băng hà. Vị trí tương ứng là Iran, Levant, Trung Đông ngày nay.
Chú thích ảnh:
(1) Hastati
(2) Principes
(3) Triarii

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *