Tìm hiểu lịch sử các tôn giáo Chăm

Tìm hiểu lịch sử các tôn giáo Chăm
Trong tiến trình lịch sử của mình, Champa đã từng trở thành trung tâm trong khu vực của nhiều tôn giáo lớn thế giới như Bàlamôn, Phật giáo và Hồi giáo. Vương quốc Champa xưa nằm trên vùng địa lý thuận lợi cho giao thương cả đường biển và đường bộ. Nằm phía ngoài bán đảo Đông Dương, nơi Biển Đông là con đường bắt buộc phải đi qua trong việc giao thương tấp nập giữa Trung Quốc với thế giới Mã Lai, Trung Đông và Ấn Độ, điều này khiến Champa trở thành nơi dừng chân lý tưởng của những thuyền buôn và cả những nhà truyền giáo đến từ nước ngoài (Anthony Reid 2000: 39 – 45; Majumdar 1963: 8 – 9; Aymonier. E 1891: 1 – 2). Chính vì vậy, người Chăm đã tiếp nhận và phát triển mãnh mẽ các tôn giáo trên.
Khi nói về vương quốc Champa người ta chú trọng nhiều đến dấu vết ảnh hưởng Ấn Độ trong tổ chức chính trị, tín ngưỡng dẫn đến các công trình xây cất, tạo tác còn để lại sau khi vương quốc đã sụp đổ. Tuy nhiên trước khi chịu ảnh hưởng của Bàlamôn giáo thì cư dân bản địa trên đất Champa đã có một hệ thống tín ngưỡng riêng vô cùng phong phú, đặc sắc. Đó là các nghi lễ phồn thực, cầu mưa, lễ khai mương đắp đập và các nghi thức cúng tế các vị nhiên thần (thần Trời, thần Đất, thần Rừng, thần Biển…), tục thờ đá và một hệ thống các nghi lễ gắn với chu kỳ cây lúa: lễ cúng trước và trong thời kỳ làm đất (như lễ cúng đập nước, lễ cúng hạ điền, lễ cúng dựng chòi, lễ cày trộm), những lễ cúng trong thời kỳ gieo trồng (lễ cúng gieo sạ, lễ cúng xin phát dọn rẫy – trồng tỉa), những lễ cúng trong thời kỳ chăm sóc cây lúa (lễ cúng mừng lúa con, lễ cúng lúa làm đòng, lễ cúng đuổi chuột), những lễ cúng trong thời kỳ thu hoạch (lễ cúng gặt lúa, lễ cúng rời sân lúa, lễ cúng đón hạt lúa về nhà, lễ cúng bẻ bông) . Đa số những lễ tục này đều có thể bắt gặp ở các tộc người trên Tây Nguyên ngày nay nhưng đã khá vắng bóng ở vùng người Chăm. Ngoài ra còn các lễ nghi khác liên quan đến đời sống cá nhân (sinh đẻ, cưới, tang, kiêng cữ…).
Căn cứ vào các tư liệu khảo cổ học người ta được biết là Bà-la-môn giáo đến Champa rất sớm, vào đầu công nguyên. Ban đầu người Chăm tiếp nhận Bà-la-môn cổ đại và sau này là Ấn Độ giáo (Hindu), cuối cùng người Chăm đa phần ngả theo Shiva giáo. Vì vậy các đền đài, tháp cổ từ Mỹ Sơn đến Bình Thuận đều là những biểu tượng thờ Shiva. Các nhà dân tộc học cho rằng tôn giáo Bà-la-môn được truyền bá đến Đông Nam Á bằng hai con đường: đường thủy và đường bộ. Đường thủy thì từ cảng Coromandel thông qua eo biển Malaka (Mã Lai), và đường bộ thì từ Atxan đi vào Mianma rồi qua khu vực đồng bằng sông Mêkông. Từ thời Lâm Ấp đến Hoàn Vương (từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ IX) Bà-la-môn giáo là tôn giáo chính và luôn luôn được coi trọng. Tôn giáo Bà-la-môn có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tâm linh của người Chăm, tạo nên bản sắc văn hóa Chăm mang nhiều màu sắc pha trộn giữa văn hóa Tôn giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của dân tộc Chăm.
Mặc dù sự xâm nhập của Bàlamôn giáo làm xuất hiện chế độ đẳng cấp nhưng quá trình phân ly tộc người vẫn chưa thể hiện rõ nét. Lúc này, xã hội Chăm bao gồm hai cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo, một là Chăm Jat(Chăm theo tín ngưỡng dân gian) và hai là Chăm Bàlamôn (Chăm theo tôn giáo Bàlamôn). Nhưng cần căn nhắc rằng chỉ một bộ phận những người thuộc tầng lớp cao quý, giàu sang mới thực sự mộ đạo, còn đa số dân nghèo vẫn giữ gìn tập tục, tín ngưỡng xưa. Sự phân ly không xuất hiện trong thời kỳ này là bởi vì, mặc dù, một bộ phận cư dân Champa theo Bàlamôn nhưng họ vẫn không từ bỏ tín ngưỡng cũ, và vì tôn giáo đa thần này khá phù hợp với tín ngưỡng vạn vật hữu linh và tín ngưỡng phồn thực của cư dân bản địa nên họ tiếp thu một cách hòa thuận. Người Chăm cổ xây dựng các đền tháp (Kalan) để thờ các vị thần Shiva, Brahma, Vishnu là tam Thần giáo của Ấn Độ. Về sau họ còn theo cả đạo Phật, có khi cũng tin bộ ba Shiva, Brahma,Vishnu và Phật, vì vào thế kỷ thứ IX, Phật giáo (trung tâm là Đồng Dương) cũng có vai trò quan trọng một thời trong đời sống vương triều Champa.
Tuy nhiên trong tiến trình phát triển mà sự hưng thịnh phải dựa vào hoạt động thương mại thì Hồi Giáo tuy đến sau, chưa đủ để lên địa vị chính thống nhưng cũng đã để lại dấu vết trên vương quốc Chàm, và nhất là trên cuộc sống của người dân Chàm, càng đậm nét hơn khi chính quyền trên cao đã sụp đổ. Chẳng nói đâu xa, trước năm 1975 người ta còn thấy những ông thầy Chàm ngồi trên các đường phố, mang giỏ thuốc mời mọc người qua đường. Các ông thầy này là dấu vết nhỏ nhoi của một tập đoàn thương nhân lạc loài, chứng minh cho gốc gác Hồi Giáo buôn bán bên trong tập đoàn Chăm đã trở thành thiểu số trên đất Việt. Cho nên tên tộc người “Hời” có vẻ là một biến dạng của chữ Hồi.
Những dấu vết cho thấy Hồi Giáo đã có mặt rất sớm trên vùng phía nam, ít ra là trong thế kỉ X cho nên lại có suy đoán theo truyền thuyết là chính Hồi Giáo ở Java vốn xuất phát từ Champa.
Ed Huber viện dẫn trong bài viết của mình một đoạn trong Tống sử câu phiên âm “A lo ho kibar” mà người Chăm đọc khi giết trâu tế thần. Căn cứ vào câu này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có thể Hồi giáo đã xâm nhập vào Champa ở thế kỷ thứ X. Còn Ravaisse tìm thấy hai tấm bia mà một tấm ghi niên đại 1039 đề cập đến những thương nhân ngoại quốc theo Hồi giáo đã đến Champa và được quyền tạm trú ở ven biển Trung Bộ. Hơn nữa theo biên niên sử Chăm, năm 1000 “Ppo Uwlwah” đã hành hương Mưkah (tức thánh địa La Mecque) và làm vua tại Champa từ năm 1000 đến năm 1036. Một số người Chăm lại hiểu rất “thiển cận” cho rằng Ppo Uwlwah này chính là Đấng Allah hóa thân (mà người Chăm gọi là Ppo Uwlwah). Thật ra nhà vua này là một người có lẽ thuộc hoàng tộc đã cải đạo (hoặc ít nhất đã hành hương La Mecque) trước khi lên ngôi và trị vì tại Bal Sri Binưy.
Theo P. Manguin trong Sự du nhập của IsLam vào Champa quốc vương Champa vào năm 951 có gởi đến Trung Hoa vị đại sứ đầu tiên và vào các thế kỷ X và XI có nhiều đại sứ khác tiếp tục đến. Trong các vị đại sứ này có người mang chử BU (Abu) gắn với tên họ (như Abu – Hassan); theo các sử gia Trung Hoa có lẽ là người của những gia đình Hồi giáo giàu sang quyền quý định cư tại Nam Trung Hoa (Canton) và trước kia đã từng cư trú tại Champa. Từ năm 986, nhân một người Việt tiếm ngôi (Lưu Kỳ Tông), có những đoàn người Chăm di cư đến Nam Trung Hoa và miền Nam đảo Hải Nam, trong số này có người theo đạo Islam. Trong thời kỳ này có nhiều công chúa hay hoàng tử Champa lấy chồng hay vợ là người có đạo Hồi giáo như công chúa Daravati và cô em. Quốc vương Champa tiếp nhận một người du lịch giàu sang xứ Trung Đông tên là Pandita Arifa, chính vị này về sau đã chuyển hóa nhà vua và cả dân chúng vào Hồi giáo. Một bài viết của Ciberon vừa được khám phá gần đây tiết lộ rằng có nhiều cuộc quan hệ giữa La Mecque, Champa và Java. Ông ta còn khẳng định là việc dạy giáo lý của kinh Coran do những vị Maulana đảm đương, có một vị trong số Maulana này đã cưới công chúa của nhà vua.
Marco Polo đã đến Champa vào năm 1280 và nhấn mạnh rằng nhà vua và dân chúng đều là người thờ hình tượng Islam. Ở xứ Champa, những nhà buôn lớn gốc Hồi giáo lúc nào cũng quan hệ chặt chẽ với nhà vua và triều đình để kiểm soát sự xuất cảng và tài trợ cho du lịch thương mại. Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý với nhau là việc Islam hóa xứ Champa chỉ xảy ra tích cực sau 1471 (năm thủ đô Vijaya – Bình Định thất thủ). Những nhà lãnh đạo Champa lúc bấy giờ không tin ở văn hóa Ấn Độ nữa mà mong ước trang bị cho đất nước mình nền văn minh Ả Rập. Vị Sejarah Melayu viết trong đoạn nói về Champa rằng: Sau khi Vijaya thất thủ vào năm 1471, một trong những hoàng tử của nhà vua tên Idera Berna Syah (Indravarman?) cùng bà vợ và đoàn tùy tùng đến nương náu tại Malaka của Sultan Mansur Syah. Tất cả đều cải đạo sau đó. Còn hoàng tử em Syah Pauling (Po Liang) thì đến xin nương náu tại Aceh nhưng tác giả không nói đến tôn giáo của vị này.
Xét lời văn ở Chiếu Bình Chiêm năm 1470 của Lê Thánh Tông thì chắc chắn là Trà Toàn (khoảng 1449-1471) đã cho thi hành một số luật tục Hồi Giáo như cấm nấu (uống) rượu, cấm giết (ăn thịt) heo trên đất nước mình, không hẳn là chăm chú riêng để chống đối tập đoàn người Việt sống lẫn lộn nơi ấy, như lời Hịch kia kể tội để lấy danh nghĩa tiến quân:
“ Ngày một quá, tháng một hơn, kẻ nó xướng lũ kia họa[Ám chỉ Chăm Pa và Yên Kinh (nhà Minh)]. Cùng một duộc gây họa loạn, coi bạo ngược chẳng hề gì. Ngập ngụa tanh loài chó lợn, cướp ngôi giết vua, đuổi con cháu Bồ Đề[Chỉ những người theo đạo Ấn Độ.] ra ngoài cõi. Nhảm tin phật quỷ dựng pháp chùa, bịa điều họa phúc, cho dòng giống Trà Toàn được sinh sôi. Cấm mổ thịt làm khốn khó dân trời, cấm nấu rượu, việc tế thần phải bỏ. Con trai, con gái hết thảy đều lo vất vả chầu hầu, kẻ góa, con côi, chịu mãi cảnh thiêu người, cắt mũi.”
Và do đó chúng ta có căn cứ ngược về trước, rằng Chế Bồng Nga đã có khuynh hướng theo Hồi Giáo nên đã hùng mạnh mà không xây tháp, dựng bia kỉ niệm theo như truyền thống Ấn cũ. Năm 1607, một đô đốc Hà Lan ghé cảng Chiêm Thành mua thực phẩm, lấy nước đã gặp ông thượng quan phụ trách nghi lễ, là dân Hồi Giáo. Như thế trong dân chúng Chàm đã thành hình hai tập đoàn mang hai tín ngưỡng khác nhau mà sự sụp đổ trên tầng lớp cao đã dồn những mâu thuẫn đi xuống trong sinh hoạt xóm làng, hàng ngày, riêng biệt trong hôn nhân, lãnh vực lúc nào cũng là nơi khuấy động tình cảm bức thiết nhất.
Chăm Bà la môn tự gọi là Cam Jat (Chăm thuần, gốc), được nhìn theo tục lệ, gọi là Cam Cuh (Chăm thiêu), hay giản dị chỉ là Cam/Chăm khi liên hệ đến tập đoàn kia: Chăm Bà Ni / Cam Bini, với nghĩa “con trai của Đấng Tiên tri”. (Tuy nhiên Dohamide giải thích Bà Ni chỉ có nghĩa giản dị là “đạo”). Bà Ni có dấu vết dòng Shiite vì trong lễ cưới Bà Ni, chú rể đóng vai Po Aly – Ali là rể của Mahomed, chủ phái Shiite. Trong khi đó nhóm Hồi Giáo mới ở Châu Đốc lại thuộc dòng Sunni. Bà Ni lại làm mất lòng người anh em Islam chính thống vì không tuân thủ nghiêm ngặt quy luật Hồi Giáo, thờ kính thần linh lẫn lộn đến mức cùng tham gia vào các lễ tiết của người phái Cam. Tuy nhiên họ lại ý thức rõ rệt về sự phân biệt “Cam, Bini khác nước”, gọi người phái Cam là Cam Kaphir (Vô đạo). Sự xung đột tôn giáo làm xuất hiện từ thế kỉ XVII các bài thơ dài được lưu giữ trong các gia đình, và xuất hiện trên sách vở ngày nay qua các công trình khảo cứu của học giả ngoại quốc, cũng như từ chính các trí thức Chàm ý thức được sự cần thiết phải hiện diện.
Liên quan đến vấn đề đang bàn là akayat (sử thi / tráng ca) Um Mưrup, trong đó nhân vật hoàng tử Chăm Um Mưrup được thuyết phục theo Hồi Giáo, quay trở lại chống vua cha, làm một thứ nhiệm vụ “tông đồ” nên chịu tử vì Đạo, cuối cùng được đồng đạo trả thù, tàn phá đất Chàm. Có hai bài thơ trữ tình dài (ariya) kể chuyện xung đột tôn giáo lại mang tính nhân bản hơn, dễ thấm vào lòng người hơn. Đó là ariya Bini-Cam (khoảng cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII) kể chuyện hoàng tử Chăm mê công chúa Islam, say đắm đi tìm người yêu trên những vùng nay không còn là của vương quốc huy hoàng ngày xưa nữa. Chuyện tình giống như vang vọng lịch sử của công trình Po Rome đi tìm viện trợ Hồi Giáo mà không kết quả: Công chúa Islam về lại Mưkah/Mecca, “Nàng mang chi chiến tranh, Quê hương anh tan tành, đám dân đen khốn khổ”. Ariya Cam-Bini (khoảng đầu thế kỉ XIX) càng gần gũi nhân tình hơn. Đó là chuyện đôi trai gái yêu nhau, không lấy được nhau, cô gái không những bị cản trở mà còn bị hành hạ đến chết. Một điểm lạ đối với những người lầm lạc nghĩ về chế độ mẫu hệ, cứ tưởng phái nữ phải có chút quyền hành nào, té ra cũng vẫn sống cuộc đời phụ thuộc (“Phận đàn bà giữ nhà,”) cực nhọc cung phụng đàn ông hưởng thụ, với ý tưởng đàn ông là của cuộc sống chinh chiến, to rộng bên ngoài xã hội, nhưng có khi thật sự chỉ là rong chơi! Nghịch lí xã hội này lại được lí tưởng hoá trong văn chương, ở ariya Xak Pakei (cũng cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII) kể chuyện một người con gái đeo đuổi người con trai đến tuyệt vọng.
Bani với Chăm (Bà Chăm) bao năm ròng rã
Ngựa nàng về một bên
Voi ta sang một ngả, đất nước tối tăm
Chỉ vì sự xung đột 2 tôn giáo mà đôi tình nhân (Hoàng tử Champa và công chúa Hồi giáo xứ Mã Lai) xót xa tuyệt vọng:
Ta ngồi đó một mình trên bãi cát
Biển mênh mông, sông nước bao la
Buồm em đi khói phủ nhạt mờ
Và ta khóc hai bàn tay đẫm lệ…
Ta như kẻ mất hồn lang bạt
Cúng thánh đường, lên tháp lạy Yang
Đất nước ta xứ Pandarang
Người đi lưu lạc quê hương rã rời
Xứ Debare loạn lạc lan tràn
Đôi ta sầu muộn, quê hương tan tành
Đất nước ngập chìm trong tối tăm
Sự mâu thuẫn Chăm/Bàni trong hiện tại, qua thơ văn lại làm nổi bật vấn đề nhân vật Ngoạ Triều trong quá khứ xa. Chúng ta đã thấy Ngoạ Triều, ông vua Chàm trên đất Việt đó (nếu nhìn sự truyền dòng qua người mẹ Chàm) rất thích ăn thịt giông, theo như ta suy đoán từ Toàn thư. Ấy thế mà con giông, xuất hiện trong “ca dao” Chăm, lại là chứng vật trung tâm của mâu thuẫn Chăm/Bà-ni:
Chăm đào giông miệng cười khì,
Giông chạy đi Chăm đấm ngực.
Chăm lại đào trong căm tức,
Ôi trời đất! Tội lắm thân con!
Inrasara giải thích hơi mâu thuẫn trong cách nhìn của người Chăm Bà Ni về con giông, theo đó, giông là “con vật được thờ phượng” (1992) / là “con bò sát xấu xa” (2006). Tuy nhiên chỉ riêng với chứng cớ trên(Đấy là lời khinh khi nặng nhứt đối với người Chăm theo đạo Bà-la-môn) thì chúng ta cũng hiểu rằng người Bà Ni đã nhạo báng một sinh hoạt thông thường của người Chăm, còn lí do xung đột cho là bắt nguồn từ sự tin tưởng kia thì chỉ là một biện minh đến sau mà thôi.
Trong các thế kỷ sau (thế kỷ XV-XVII) gần như toàn thể dân chúng đều bị xáo trộn mạnh do sự truyền đạo và cạnh tranh của tôn giáo mới này đến nỗi các vua chúa Champa thời đó không giải quyết nổi. Chính vì thế mà giữa thế kỷ XVII, vua Ppo Rome (1627-1651), một vị vua anh minh của Champa, tìm cách giải quyết ổn thỏa mong đem lại sự đoàn kết cho dân tộc, đã đưa quan niệm “nhất thể lưỡng hợp” để dung hòa hai cộng đồng tôn giáo này, cho rằng người Chăm theo tôn giáo Bà-la-môn được gọi là Ahier thuộc dương, theo Bàni (Islam được bản địa hóa) được gọi là Awal thuộc âm. Theo quan niệm này thì hai cộng đồng tôn giáo “tuy hai mà một”, sống gắn bó và kết hợp với nhau như nam và nữ, chồng và vợ. Quan niệm này được thể hiện thông suốt và nhất quán trong nội dung lý thuyết (trong âm có dương, trong dương có âm) cũng như trong hình thức nghi lễ (các đám cưới, đám tang), trong cả trang phục các vị chức sắc của hai tôn giáo. Từ đó hai tôn giáo lớn thế giới là Bà-la-môn và Islam đã bị Chăm hóa hoàn toàn để trở thành Bà-la-môn Chăm và Bàni (tức Islam Chăm) khác hẳn với các đạo nguyên gốc: Đạo Bà-la-môn tiếp tục thờ đa thần nhưng phải thờ phượng thêm Đấng Allah (của Islam), và ngược lại đạo Bàni vừa phụng thờ Allah (Ppo Uwlwah theo Chăm hóa) vừa phải tôn thờ tất cả thần Yang của Bà-la-môn. Có người cho rằng Ppo Bin Swơr kiêng cả thịt heo lẫn thịt bò.
Trong thực tế, người Chăm Bà-la-môn vẫn mời các tu sĩ Bàni (Ppo acar) đến chủ lễ trong một số việc cúng kiếng (như cúng ngạnh, cúng “Hal Lwah” cúng Ban hwak v.v…) Trong tháng Ramưwan (chay tịnh) tín đồ Bà-la-môn cũng đến Thánh đường Bàni để cầu nguyện và cúng dường. Ngược lại, người Chăm Bàni vẫn làm các lễ Rija (Rija praung, Rija Dayơp, Ngak xwa, các lễ tẩy uế, và mùa Katê cũng đội mâm quả hay gà lên Tháp cúng để cầu nguyện các thần Yang Chăm phù hộ cho gia đình và quê hương được bình an… Ngoài ra, qua sự “lưỡng hợp” này, dân tộc Chăm còn phát sinh một số tu sĩ mới như Ong Mưdwơr, Muk Pajuw, Ong Camưnei. Về việc thờ các thần linh thì từ khi được bản địa hóa, Tôn giáo Bà-la-môn làm lơ với các Tam thần Ấn Độ (Shiva, Brahma, Vishnu) để tôn thờ Ppo Inư Nưgar (Bà Mẹ xứ sở) và các vua có công trình lưu lại cho hậu thế như: Ppo Klaung Girai, Ppo Rome, v.v…).
Như vậy hai tôn giáo Bà-la-môn và Bàni dân tộc Chăm trở thành hai tôn giáo kỳ lạ, độc đáo tại Việt Nam (tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận) mà trên thế giới không đâu có được. Còn cách hành đạo thì các nghi thức tôn giáo “đan chéo” nhau đúng là “tuy hai mà một, tuy một mà hai” theo như thuyết nhất thể lưỡng hợp.
Chính sự bản địa hóa tôn giáo Islam bằng cánh buộc người theo Islam phải tôn thờ tất cả thần linh của Bà-la-môn cùng tất cả hình thức tín ngưỡng dân gian của dân tộc mới đẻ ra một tôn giáo mới là Bàni. Có người cho rằng Bàni và Islam là một, vì cùng thờ Đấng Allah. Nói như thế có đúng không?
Trên phương diện học thuật và khoa học, nói như thế chỉ mong muốn vuốt ve tình cảm nhằm giúp anh em thuận hòa với nhau mà đừng bao giờ chia rẽ và xích mích, xung đột… Suy nghĩ như vậy là rất tốt và thiện chí. Nhưng vấn đề ở đây là khoa học, trên phương diện lý luận cũng như trên phương diện thực tiễn.
– Trên phương diện lý luận, có bao giờ một người Hồi giáo chính thống chấp nhận việc thờ cúng thần linh và cả thờ cúng tổ tiên không? Không bao giờ, vì như thế là haram.
– Trên phương diện thực tiễn, các anh em theo đạo Islam không bao giờ dám đến dự lễ Katê có cúng quẩy và cầu nguyện thần linh, vì người Hồi giáo không được thờ một thần linh nào khác ngoài Allah.
Ngoài ra, về giáo lý giáo luật Islam, các tín đồ phải có đức tin và tuân thủ năm điều cơ bản của giáo luật. Đức tin rút lại ở sự công nhận ba điều: Một Thượng đế duy nhất, sứ mạng của giáo chủ, và sự phục sinh và sự phán xét cuối cùng sau ngày tận thế.
Năm điều cơ bản của giáo luật gồm: Biểu lộ đức tin, Cầu nguyện mỗi ngày, Ăn chay trong tháng Ramưwan, Bố thí, Hành hương đến thánh địa La Mecque.
Các điều răn trên đây không được các tín đồ Bàni tuân thủ. Họ chỉ phó thác cho các thầy acar… Như vậy chúng ta thấy Bàni không giống Islam trong những điều giáo luật căn bản nhất.
Vấn đề tôn giáo thật là phức tạp. Đối với cá nhân cũng như cộng đồng chúng ta, không bao giờ được phép giải quyết “lấy lệ” hay “cho xong việc” mà phải quan tâm thực sự khi có một quyết định nào về tôn giáo. Chuyện xích mích, xung đột tôn giáo dẫn đến tiêu vong một quốc gia là một bài học lịch sử của dân tộc Chăm.
Từ giữa tháng 5-2017, sự cố ghi tên tôn giáo trên Chứng minh Nhân dân của người Chăm Bà-ni ở Ninh Thuận gây xôn xao dư luận cộng đồng. Bà con không hiểu tại sao “tôn giáo: Bà-ni” lâu nay bỗng dưng bị chuyển đổi thành: Đạo Hồi”.
Trong thư kiến nghị có đoạn:
“Lâu nay trong Chứng minh Nhân dân mọi tín đồ Chăm Bà-ni đều được ghi:Dân tộc: Chăm, tôn giáo: Bà-ni, không hiểu vì sao vào tháng 6-2017, khi con em Chăm Bà-ni làm CMND, tất cả bị thay đổi thành: Dân tộc: Chăm, tôn giáo: Đạo Hồi. Ghi như thế, phạm vào 2 điểm sai sau:
– Không đúng với truyền thống văn hóa và tín ngưỡng dân tộc Chăm.
– Không đúng với thực tế: Hai tôn giáo Islam (Hồi giáo, hay Đạo Hồi) và Bà-ni khác nhau về cơ bản, dù Bà-ni có nguồn gốc Islam nhưng đã được bản địa hóa từ xa xưa.
Ngoài ra nó còn phạm mâu thuẫn:
– CMND cha và mẹ đều ghi Bà-ni, trong khi con lại ghi Đạo Hồi.
– Cùng một người nhưng CMND cũ ghi Bà-ni, CMND mới lại ghi Đạo Hồi.
– Cũng người đó, ở Giấy Khai sinh ghi Bà-ni, trong CMND lại ghi Đạo Hồi.
Vì sự thật và quyền lợi của tín đồ, nay Hội đồng Sư cả và Ban Hỗ trợ Tôn giáo thôn Phước Nhơn đề nghị: Phục hồi lại tên gọi cũ là: Dân tộc: Chăm, Tôn giáo: Bà-ni cho tất cả tín đồ Chăm Bà-ni. Rất mong Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bà-ni và Ban Tôn giáo tỉnh Ninh Thuận xét đơn này và giải quyết càng sớm càng tốt.”
Nguyên do sự cố là nhầm lẫn chính từ bộ phận tham mưu dưới Tỉnh [hay dưới nữa] không tách bạch, từ đó trên Bộ đưa ra “Thống kê”:
Văn bản chính thức: “Thống kê các tổ chức Tôn giáo đã đăng ký và công nhận”, kí vào tháng 7-2012.
Văn bản của Bộ kí vào tháng 7-2012, tức non 5 năm trước khi xảy ra sự cố thay đổi “tôn giáo: Bà-ni” thành “tôn giáo: Đạo Hồi” đối với tín đồ Chăm Bà-ni. Trong 13 Tổ chức Tôn giáo, cộng đồng Chăm chiếm 2 tổ chức ở 2 mục lớn, là: [11] và [12].
Mục [12]: Đạo Bà-la-môn thì đúng, riêng mục [11]: Đạo Hồi, việc gộp “Hội đồng Sư cả Chăm Bà-ni Ninh Thuận” và cả “Ban Đại diện lâm thời cộng đồng Hồi giáo Bà-ni tỉnh Bình Thuận” vào chung mục này, là sai lớn. Vì “tôn giáo Bà-ni” với “Hồi giáo” có những khác biệt rất cơ bản, nên không thể gộp vào để gọi chung là “đạo Hồi” được.
Sai về tên gọi. Trong khi ở Ninh Thuận là: “Chăm Bà-ni”, thì ở Bình Thuận là: “cộng đồng Hồi giáo Bà-ni”.
Để chính danh, cần thống nhất tên gọi: Tôn giáo: ISLAM (hay Hồi giáo, nếu đã quen dùng từ này), Tôn giáo: BÀ-NI (chứ không phải Hồi giáo Bà-ni), Tôn giáo: BÀ-LA-MÔN.
nguồn:
Inrasara.com
Inrasara, Ariya Cam, NXB Văn nghệ, 2006, tr. 51.
Inrasara, Văn học Chăm khái luận, NXB Văn hóa dân tộc, 1994.
Mâu thuẫn Chăm – Bà Ni – Tạ Chí Đại Trường
Báo Văn Hóa Nghệ An
Đại Việt Sử ký Toàn Thư




Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *