TẢN MẠN: KHI NỖI BUỒN QUÁ ĐẸP ĐỂ CÓ THỂ GỌI TÊN…

Mình rất thích cảm giác buồn bã. Không phải là kiểu đau khổ chán đời vì thất tình này nọ đâu, mà chỉ cần một vài cảm xúc trầm lặng nào đó là đủ rồi. Trong tiếng Anh có một từ rất tinh tế để miêu tả nó đấy, chính là “melancholy”. Khác với những tính từ tiêu cực như “sorrow” (sự buồn rầu), “suffering” (nỗi đau khổ), hay “depression” (chứng trầm cảm), “melancholy” loại cảm giác bâng khuâng, trầm ngâm, thường không vì một nguyên nhân rõ ràng nào cả.

Có thể gọi mình là một “con nghiện melancholy” cũng được. Như người ta cần cafein để giữ đầu óc tỉnh táo làm việc, mình hay có thói quen khiến bản thân chìm đắm trong cảm xúc u buồn mỗi khi cần sáng tạo một cái gì đó. Nghe hơi kỳ lạ phải không, nhưng với mình thì nó cực kỳ hiệu quả trong việc tạo cảm hứng đấy ^^

Cơ mà nhiều khi mình cảm thấy mỗi chữ “melancholy” thôi vẫn là không đủ để miêu tả tất cả những cảm xúc mà mình thường xuyên trải qua. Và thế nên mình lại phải tìm đến tiếng Nhật để giúp mình giãi bày bản thân một lần nữa.

Còn bạn, bạn đã từng trải qua cảm xúc buồn bã nào dưới đây chưa?

????: 周憂 (@shuu_Illust on Twitter)

Yūgen là một khái niệm quan trọng trong mỹ học truyền thống của Nhật Bản. Không có từ ngữ nào trong ngôn ngữ của ta có thể dịch chính xác được “Yūgen”, bởi những gì không thể truyền đạt rõ ràng thông qua ngôn ngữ cũng như không thể cảm nhận bằng các giác quan thông thường chính là Yūgen.

Vậy rốt cuộc “Yūgen” là gì? Hãy tưởng tượng khoảnh khắc tâm hồn bạn lắng đọng trước vẻ đẹp của làn nước đại dương xanh ngát; khi bạn cảm nhận làn gió xuân thì mơn man qua mái tóc hay rì rào trong những tán cây sum suê… Cho dù bạn có hoàn toàn nhận thức được hay không, bạn cũng đã trải qua “Yūgen” rồi đấy!

Mono no aware có thể nói là một wordporn trong tiếng Nhật. Từ ‘Mono’ nghĩa là sự vật, còn ‘aware’ mang nghĩa là cảm giác hay cảm xúc, nên cả cụm ‘Mono no aware’ để chỉ những rung động khẽ khàng trong tâm hồn về sự vô thường của sự vật – một cảm giác xao xuyến, nôn nao khi ta bất giác ngẫm nghĩ về những gì đã, đang, và sẽ qua đi, chẳng hạn như khi chứng kiến sắc vàng rực rỡ của chiếc lá mùa thu lúc sắp sửa giã từ cuộc đời.

Mặc dù nhiều người sẽ dịch “懐かしい – Natsukashii” là “hoài niệm”. Tuy nhiên, khác với khi chúng ta nói về sự hoài niệm trong tiếng Việt với cảm giác nuối tiếc thông thường, “Natsukashii” trong tiếng Nhật lại gợi nhớ về những ký ức vui vẻ, hạnh phúc – những thứ khiến chúng ta bất giác mỉm cười khi nhớ về…

Trong tiếng Nhật có ba từ thường gặp để miêu tả nỗi buồn của một người. Từ đầu tiên mang ý nghĩa đơn giản nhất là “Kanashii” ( 悲しい) – một nỗi buồn đơn thuần, giống như “sad” và “sorrowful” trong tiếng Anh. Từ thứ hai là “Sabishii” (寂しい) – diễn tả tâm trạng ủ dột, khó chịu vì cô đơn, lẻ loi. Từ thứ ba mang nhiều tầng nghĩa nhất và cũng là từ ít gặp trong giao tiếp thông thường chính là “Setsunai”.

“Setsunai” (切ない) được kết hợp từ Hán tự: 切 (mang nghĩa ‘cắt đứt’) và hậu tố ない nhằm mô tả một cái gì đó từng rất huy hoàng nhưng giờ đây bắt đầu dần phai nhạt. Đó là sự giằng xé đau đớn ở rìa của một ký ức tươi sáng hay một niềm vui dâng trào, khi biết rằng mọi thứ trước mắt sẽ sớm lụi tàn theo thời gian. Cảm xúc này giống như một vết cắt mỏng manh nhưng bén nhọn. Rồi nỗi đau đó xuyên qua tâm trí và cơ thể ta, đan xen giữa sự thống khổ và niềm hạnh phúc lạ kỳ, khiến ta khó lòng gọi tên cho đúng những gì mình đang cảm thấy bằng từ ngữ thông thường. Thứ cảm xúc phức tạp này trong tiếng Nhật chính là “Setsunai”…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *