NƯỚC NHẬT VÀ HAI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA HẠM ĐỘI MÔNG CỔ NĂM 1274 VÀ 1281

NƯỚC NHẬT VÀ HAI CUỘC XÂM LƯỢC CỦA HẠM ĐỘI MÔNG CỔ NĂM 1274 VÀ 1281
Trong lịch sử Nhật Bản từ thời cổ đại cho tới trước năm 1945 chưa có lực lượng bên ngoài nào có thể đặt chân chiếm đóng lâu dài xứ sở này. Tuy nhiên đã có hai lần Đại hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt tìm cách biến Nhật Bản trở thành một chư hầu lệ thuộc vào đế chế khổng lồ của ông ta bằng bạo lực năm 1274 và 1281. Trong cả hai trường hợp, người Nhật, và đặc biệt là các chiến binh samurai đã bảo vệ bờ biển của họ trước khi những cơn bão kamikaze hay ‘thần phong’ đã đánh chìm và nhấn chìm vô số tàu và người của kẻ xâm lược, cứu Nhật Bản khỏi sự xâm lược của nước ngoài. Vinh quang của chiến thắng pha trộn sự can thiệp của thần thánh với chủ nghĩa anh hùng sẽ trở thành huyền thoại trong văn hóa Nhật Bản mãi mãi về sau.
VÌ SAO MÔNG CỔ CẦN PHẢI THÔN TÍNH NHẬT BẢN?
Những năm 1260 – 1270 người Mông Cổ đã thôn tính một nửa Trung Quốc và Triều Tiên vào đế chế khổng lồ của họ và Hốt Tất Liệt hiện đang nhắm đến Nhật Bản, ông ta muốn đưa Nhật Bản vào đế chế của mình. Hốt Tất Liệt muốn nâng cao uy tín cá nhân của mình đồng thời loại bỏ hoạt động thương mại giữa Nhật Bản và kẻ thù lớn của mình ở miền nam Trung Quốc là vương triều Nam Tống. Cuộc chinh phạt Nhật Bản sẽ đưa một đội quân mới và được trang bị tốt vào tay Hốt Tất Liệt và ông ta có thể sử dụng cho cuộc chinh phạt chống lại nhà Tống sau đó. Các cuộc xâm lược thậm chí có thể là một sự trả thù nào đó cho sự tàn phá mà Oa Khấu (hải tặc Nhật Bản) gây ra cho các bờ biển Đông Á. Dù lý do của ông là gì, cách tiếp cận rất rõ ràng: ngoại giao hăm dọa trước để buộc đối thủ phải quỳ gối đầu hàng, chiến tranh chỉ là sự lựa chọn thứ 2.
CUỘC XÂM LƯỢC ĐẦU TIÊN CỦA MÔNG CỔ (1274)
Hốt Tất Liệt đã gửi thư tới Nhật Bản vào năm 1268 công nhận Nhật hoàng là ‘vua Nhật Bản’ và bày tỏ mong muốn thúc đẩy quan hệ thân thiện nhưng cũng kèm theo yêu cầu cống nạp cho triều đình Mông Cổ với mối đe dọa che giấu ẩn trong lời lẽ ngoại giao. Một sứ thần Trung Quốc cũng được gửi đến Nhật Bản vào năm 1270 và ông đã ở đó một năm để thúc đẩy trao đổi liên lạc giữa hai quốc gia. Những bức thư và đại sứ tiếp theo được gửi đến Nhật Bản năm 1274 nhưng tất cả đều bị phớt lờ.
Hốt Tất Liệt đã tích lũy một hạm đội gồm khoảng 800-900 tàu từ Triều Tiên đến Nhật Bản vào đầu tháng 11 năm 1274. Các con tàu chở một đội quân gồm 16.600-40.000 người, bao gồm người Mông Cổ và người Trung Quốc và người Triều Tiên.
Lãnh thổ đầu tiên của Nhật Bản chạm mặt những kẻ xâm lược này là quần đảo Tsushima vào ngày 5 tháng 11, sau đó người dân đã bị cướp bóc và tàn sát bất chấp sự kháng cự mạnh mẽ.
Sau một thời gian dừng lại ở đảo Takashima và bán đảo Matsuura, hạm đội xâm lược đã tiến tới vịnh Hakata, ngày 19 tháng 11. Vùng nước nông và được che chở của vịnh lớn đã gợi ý cho người Nhật rằng đây sẽ là địa điểm Mông Cổ đổ bộ. Họ đã chuẩn bị sẵn sàng nhưng tổng lực lượng phòng thủ của Nhật Bản vẫn còn nhỏ, khoảng 4.000 đến 6.000 người.
Người Mông Cổ đã giành được lợi thế những cuộc giao chiến đầu tiên nhờ vào số lượng và vũ khí vượt trội của họ – cây cung hai sừng mạnh mẽ và lựu đạn chứa đầy thuốc súng bắn bằng máy phóng, nỏ xuyên giáp và mũi tên tẩm độc. Ngoài ra, phong cách chiến tranh của người Nhật thích cho phép các chiến binh riêng lẻ đấu tay đôi và họ hoàn toàn bất ngờ trước lối tấn công tràn lên ồ ạt của quân xâm lược. Tuy nhiên các samurai cũng có những lợi thế nhất định so với kẻ thù khi họ mặc áo giáp bằng sắt và da (chỉ có thiết kỵ binh Mông Cổ mặc áo giáp) và thanh kiếm dài sắc bén của họ được sử dụng hiệu quả hơn nhiều so với thanh kiếm ngắn của Mông Cổ.
18 ngày sau lần đầu tiên đổ bộ trên đất Nhật Bản và mặc dù tạo ra một đầu cầu tại vịnh Hakata, những kẻ xâm lược đã không tiến sâu hơn vào lãnh thổ Nhật Bản, có lẽ đúng là toàn bộ ‘cuộc xâm lược’ thực sự chỉ là một nhiệm vụ trinh sát cho cuộc xâm lược lớn thứ hai chưa xảy ra. Dù động cơ là gì, những kẻ xâm lược vẫn ở lại tàu của chúng trong đêm, rút ​​ra vịnh để đảm bảo an toàn vào ngày 20 tháng 11. Đây là một quyết định định mệnh bởi vì một cơn bão khủng khiếp sau đó đã tấn công làm chết tới một phần ba quân đội Mông Cổ và làm hỏng hạm đội nghiêm trọng tới mức những kẻ tấn công đã buộc phải rút về bán đảo Triều Tiên.
CUỘC XÂM LƯỢC THỨ HAI CỦA MÔNG CỔ (1281)
Hốt Tất Liệt sau đó quay trở lại đường lối ngoại giao và gửi một phái đoàn khác đến Nhật Bản vào năm 1275 và một lần nữa, đòi hỏi cống nạp phải được trả. Lần này, Mạc phủ thậm chí còn phản ứng quyết liệt hơn khi trả lời bằng cách chặt đầu các đại sứ Mông Cổ trên một bãi biển gần Kamakura. Hốt Tất Liệt đã không bị nản lòng và đã gửi một phái đoàn thứ hai vào năm 1279. Các sứ giả đã gặp số phận giống như những người tiền nhiệm của họ và Hốt Tất Liệt nhận ra rằng chỉ có lực lượng quân sự mới đưa được Nhật Bản vào lãnh thổ đế chế của ông ta.
Tuy nhiên, người Mông Cổ đã bị mắc kẹt với các chiến dịch ở miền nam Trung Quốc chống lại nhà Tống và phải hai năm nữa họ mới chuyển sự chú ý của mình sang Nhật Bản.
Trong khi đó, người Nhật đã đề phòng một cuộc xâm lược sắp xảy ra kể từ năm 1274. Ngoài việc giữ quân đội ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, những bức tường đá khổng lồ được dựng lên xung quanh Hakata trong năm 1275 dài tới 19 km.
Hạm đội xâm lược thứ hai của Mông Cổ lớn hơn rất nhiều so với đội đầu tiên. Lần này, nhờ sự thất bại của nhà Tống và sáp nhập hải quân của họ, Hốt Tất Liệt đã có 4.400 tàu và khoảng 100.000 người, một lần nữa là sự pha trộn của các chiến binh Mông Cổ, Trung Quốc và Triều Tiên.
Một lần nữa, những kẻ xâm lược đã tấn công Tsushima ngày 9 tháng 6 trước khi tấn công vịnh Hakata trên Kyushu vào ngày 23 tháng 6 năm 1281.
Các bức tường thành đã có hiệu quả và lần này những kẻ tấn công không thể đổ bộ lên bãi biển, dẫn đến nhiều trận thủy chiến. Cuối cùng, sau những mất mát nặng nề, người Mông Cổ rút về quần đảo Shiga và Noki và sau đó đến đảo Iki.
Hốt Tất Liệt sau đó đã phái 40.000 quân tiếp viện từ miền nam Trung Quốc (một số nguồn lên tới 100.000) và hai đội quân đã tập hợp để tiến sâu vào lãnh thổ Nhật Bản, lần này họ chọn Hirado làm mục tiêu vào đầu tháng 8. Các hạm đội kết hợp sau đó di chuyển về phía đông và tấn công Takashima ngày 12 tháng 8. Giao tranh ác liệt nổ ra trong vài tuần và những kẻ xâm lược phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực.
Vào ngày 14 tháng 8 năm 1281, một cơn bão khủng khiếp xuất hiện đã quét sạch hầu hết hạm đội Mông Cổ. Từ một nửa đến hai phần ba lực lượng Mông Cổ đã bị giết. Những cơn gió đã thổi bay hạm đội Mông Cổ được đặt tên là kamikaze hoặc ‘Thần Phong – ngọn gió thần thánh’. vì họ được coi đó là một phản ứng trước lời kêu gọi của người dân Nhật Bản đối với Hachiman , vị thần chiến tranh của Thần đạo để bảo vệ đất nước trước một kẻ thù vượt trội về số lượng. Cái tên kamikaze sẽ được hồi sinh khi được gán cho các phi công cảm tử của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai (1939 – 1945) vì họ cũng được hy vọng là phương sách cuối cùng để một lần nữa cứu Nhật Bản khỏi cuộc xâm lược.
Dường như các tàu thuyền của Mông Cổ không được chế tạo đặc biệt, nhiều tàu trong hạm đội rất không phù hợp cho các chuyến đi biển. Khảo cổ học đã tiết lộ rằng nhiều tàu đặc biệt yếu và không thể chịu được trong trường hợp có bão. Tay nghề kém có thể là do Hốt Tất Liệt đang gấp rút tập hợp đội tàu xâm lược từ nhiều nguồn lại với nhau. Ngành đóng tàu của Trung Quốc thời kỳ này thực sự nổi tiếng vì khả năng đi biển của họ, vì vậy có vẻ như nhu cầu về một hạm đội khổng lồ trong một khoảng thời gian ngắn đã dẫn đến rủi ro. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng trong sự sụp đổ của hạm đội là các cuộc tấn công của tàu thuyền nhỏ Nhật Bản đã buộc các chỉ huy Mông Cổ phải neo những con tàu lớn và khó sử dụng của họ bằng dây xích trên biển. Chính biện pháp phòng thủ này đã gây thiệt hại nặng nề cho hạm đội khi gặp những cơn bão lớn.
Hốt Tất Liệt không bao giờ từ bỏ con đường ngoại giao và ông ta tiếp tục gửi các phái đoàn sứ giả đến Nhật Bản nhưng đều không thành công để thuyết phục Mạc phủ Kamakura thần phục triều đình Mông Nguyên.





Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *