Trả lời bởi K Depaul (Senior R&D Project Manager), cập nhật ngày 10/9/2020
—————————–
Ngồi xuống làm miếng nước đi bồ tèo, sẽ là một câu trả lời dài đó.
Đi từ bắc xuống nam sẽ lý tưởng hơn về mặt địa lý: hạch tâm của công nghiệp và tri thức của châu Âu trong nhiều thế kỷ sau khi Đế Chế La Mã sụp đổ luôn tập trung chủ yếu tại ba khu vực lớn gọi là Europe’s Wealth Banana (EWB).
Tri thức và sản lượng kinh tế của ba khu vực này hợp lại chiếm hơn 60% toàn bộ châu Âu lục địa. Ba khu vực này chỉ thay đổi rất ít về biên giới của các quốc gia qua nhiều thế kỷ. Điều này nghĩa là nó không chỉ phụ thuộc từng chính phủ riêng biệt mà còn là nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa nữa.
Tuy nhiên, một số yếu tố đã thay đổi trong vài thế kỷ qua và trong cả vài thập kỷ gần đây, gây tác động sâu sắc tới các nền kinh tế của vùng Địa Trung Hải.
Cho phép tôi được giới thiệu hết sức tóm lược vài kiến thức lịch sử nhé.
Trước khi các đế quốc hàng hải lớn trỗi dậy (Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh), siêu cường số một châu Âu là Đế Chế Ottoman. Vì nó trải dài tới tận vùng Balkan, nên ta phải xem xét ảnh hưởng sâu sắc của Đế Chế Ottoman tới sự phát triển của các nước vùng Balkan, Đông Âu và Hy Lạp sau này.
Đế Chế Ottoman vẫn nắm giữ vị trí này ngay cả khi Tây Ban Nha giàu lên nhanh chóng nhờ bóc lột ở Tân Thế Giới. Chìa khóa cho sự thành công của họ đến từ quyền kiểm soát hai thứ: phần lớn Địa Trung Hải và con đường thương mại tới phương Đông. Phương Đông lúc bấy giờ là một núi tiền khổng lồ dưới dạng gia vị, lụa, đồ gốm sứ và trà. Nếu kiểm soát được các tuyến đường bộ tới phương Đông, bạn có thể đánh thuế giao dịch qua đây và tiêu diệt kẻ thù của mình. Đây chính là cội nguồn sức mạnh của Đế Chế Ottoman.
Người Thổ Nhĩ Kỳ lúc bấy giờ được coi là mối đe dọa ở châu Âu, nhưng sự giao lưu giữa các nền văn hóa mà họ mang đến lại chính là món quà lớn nhất trong lịch sử châu Âu. Lý do ư? Họ đã mở đầu cho thời kỳ Phục Hưng, thúc đẩy sự hồi sinh của trí thức châu Âu về nghệ thuật, thủ công nghiệp và công nghệ. Chúng sẽ thay đổi sâu sắc văn hóa tại những khu vực khởi đầu của thời Phục Hưng trong nhiều thế kỷ. Sự trùng lặp giữa các trung tâm tri thức thời Phục Hưng với EWB hiện nay không phải là ngẫu nhiên.
Sự khám phá ra Tân Thế Giới và những bước tiến trong công nghệ đóng tàu đã mang lại hai thứ: nguồn của cải mới cho phương Tây, và những tuyến đường biển mới tới phương Đông nằm ngoài sự kiểm soát của Đế Chế Ottoman. Chúng lại tiếp tục gây ra ba sự thay đổi quan trọng mà ngày nay ta vẫn còn cảm thấy:
- Châu Âu đột nhiên, và cũng là lần đầu tiên, trở thành trung tâm thương mại của thế giới.
- Địa Trung Hải đã mất đi vị trí chiến lược là trung tâm của mọi giao dịch giữa phương Tây và phương Đông.
- Đế Chế Ottoman và toàn bộ vùng Trung Á bị gạt ra khỏi dòng chảy của cải toàn cầu.
Vị trí địa chính trị chiến lược của Đế Chế Ottoman đã trở thành nhà tù của chính nó, khởi nguồn cho sự tụt dốc về vị thế và kinh tế của Trung Đông và Trung Á cho tới tận thế kỷ 20 (nhờ quá trình phi thực dân hóa và khám phá ra dầu mỏ).
Tuy nhiên, chính sự thay đổi sâu sắc về văn hóa của ba khu vực đề cập ở đầu bài đã giúp chúng trở nên giàu có. Đa số trung tâm của thời Phục Hưng đã tận dụng của cải này để gia tăng sức mạnh, thủ công nghiệp và công nghệ. Gần như tất cả những khu vực khác đã dùng của cải có được chỉ để phô trương và ngủ quên trên chiến thắng. Ví dụ: vương triều Tây Ban Nha chỉ cho phép một lượng rất nhỏ vàng bạc được tới tay dân chúng. Hoàng gia Tây Ban Nha bắt đầu tích trữ vàng vì họ đánh đồng một cách sai lầm giữ lượng vàng bạc nắm giữ và sức mạnh thực tế của đất nước.
Dưới thời kỳ phô trương vàng bạc và các biện pháp kiểm soát vốn của Tây Ban Nha, người Anh (“Repubbliche Marinare”) và Hà Lan đã có được những nhân tài kiệt xuất để thiết lập sự thống trị trên các vùng biển, thị trường tài chính và tuyến đường thương mại khắp thế giới. Phổ và Áo gặp bất lợi về địa lý nên họ đã tập trung phát triển các mảng khác: với người Áo là nghệ thuật (Áo vẫn giàu nhờ buôn bán muối), người Đức đầu tư vào công nghệ (quân sự là chính. Họ mải mê chém giết lẫn nhau trong quá khứ, nhưng không để chúng leo thang quá xa). Người Pháp cũng rất hứng thú với các công nghệ quân sự, chủ yếu là vì những “hảo hữu” (T/N: ý nói bọn uống trà á) ở bên kia eo biển Manche và người Tây Ban Nha hiếu chiến ở phía tây. Người Pháp tập trung phát triển thương mại và văn hóa, chủ yếu tại Paris và bờ biển phía nam. Điều tương tự cũng xảy ra với Vương Quốc Aragon.
300 năm sau, bản đồ châu Âu đã thay đổi sâu sắc. Tuy nhiên, dấu ấn của thời Phục Hưng và các tuyến đường thương mại biển đến Tân Thế Giới và châu Á vẫn in dấu mạnh mẽ ở châu Âu lục địa.
Các phong trào văn hóa và du lịch-văn hóa ở bờ biển phía nam của Pháp và Tây Ban Nha, EWB ở Trung Âu và phía nam Ý, cũng như văn hóa của Đông Âu và dọc theo sông Danube vẫn có cùng một động lực.
Trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới, sự sụp đổ của các chế độ độc tài và Bức Màn Sắt, mức độ công nghiệp hóa của ba khu vực trên vẫn được giữ nguyên. Các khu vực đầu tiên ở Đông Âu được phục hồi về xã hội và kinh tế sau sự sụp đổ của Bức Màn Sắt là những nơi nằm dưới ảnh hưởng của Áo (như Cộng Hòa Séc và Slovakia). Tuy nhiên, chính nền văn hóa của những khu vực này đã khiến họ thích tích trữ của cải hơn là phát triển nó, gây cản trở cho sự phát triển của chính họ – hiện vẫn còn hiện hữu rất rõ tại những nước này. Chúng chủ yếu là do bất ổn chính trị và chiến tranh hơn là tư duy của người dân.
Các trung tâm tri thức và phát triển công nghiệp ở ba khu vực EWB ngày nay chủ yếu vẫn là những khu vực đã khởi nguồn cho sự phát triển của chúng từ thời Phục Hưng. Tại Tây Ban Nha, của cải vẫn tập trung vẫn chủ yếu tập trung tại Vương Quốc Aragon khi xưa – ngày nay là Catalonia (thủ đô Madrid là một ngoại lệ). EWB ở Trung Âu vẫn là động lực chính cho sự phát triển công nghệ và công nghiệp.
Vậy chuyện gì đã xảy ra với Nam Âu?
Thực sự thì chẳng có gì “xảy ra” với Nam Âu cả. Những gì chúng ta đang thấy ngày nay đã diễn ra hàng thế kỷ, chỉ là có thêm vài vấn đề của thời hiện đại như ảnh hưởng của nước biển và các xu hướng chính trị mà thôi.
Các nước vùng Balkan gần như không bị lâm vào tình trạng bất ổn chính trị sau khi Đế Chế Ottoman tan rã. Trong điều kiện như vậy, người ta không khỏi tự hỏi rằng tại sao kinh tế của những nước này lại phát triển chậm chạp.
Hy Lạp từng có vị trí chiến lược ở khu vực Địa Trung Hải, nhưng vị trí đó đã mất đi sự quan trọng của nó. Chính xác thì Hy Lạp từng có một thời gian phục hồi ngắn sau khi giành được độc lập từ Đế Chế Ottoman. Tuy nhiên, nó đã bị giáng một đòn mạnh bởi sự bất ổn trong khu vực. Sai lầm trong quản lý và sự cạnh tranh quốc tế đã khiến nền kinh tế Hy Lạp – vốn có động lực không đủ mạnh dựa trên du lịch và ngành đóng tàu – trở nên yếu kém.
Một sai lầm cụ thể là thất bại trong việc phát triển cơ sở hạ tầng: đường đưa hàng hóa đến cảng bất tiện nên không thực sự thu hút được các doanh nghiệp. Gian lận trong các thủ tục gia nhập EU càng làm tăng sự căng thẳng này mà đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng đồng euro (EU xử lý khủng hoảng này cũng rất kém). Trên thực tế, các kế hoạch mà EU đưa ra (chủ yếu là bởi sức ép chính trị từ Pháp và Đức) tai hại đến mức khiến mọi chuyện tệ càng thêm tệ, chi phí lớn hơn nhiều so với việc viện trợ trực tiếp. Điều này đẩy Hy Lạp vào tình trạng chảy máu chất xám khổng lồ và mất khả năng thanh toán vẫn tiếp tục đến ngày nay.
Tây Ban Nha vẫn tiếp tục truyền thống quản lý quá quan liêu của mình, bóp nghẹt sự phát triển của doanh nghiệp hầu khắp cả nước. Sau khi mất hết thuộc địa và độc lập của chính mình trong một thời gian ngắn, Tây Ban Nha chỉ còn lại một xã hội nông nghiệp. Cuối thế kỷ 19, Catalonia và các tỉnh Basque lần nữa cho thấy mình là trung tâm phát triển kinh tế của Tây Ban Nha, nhưng nền tài chính kém phát triển và quan liêu đã khiến của cải không thể được tái phân bố trên cả nước nên nhiều vùng không phát triển được. Giai đoạn này đã kết thúc với cuộc nội chiến Tây Ban Nha.
Nền kinh tế cơ bản đã bị đình trệ trong phần lớn thời kỳ cai trị bế quan tỏa cảng của Franco. Tuy nhiên, trước áp lực mở cửa để đổi lấy viện trợ quốc tế và thương mại vào đầu thập niên 1950, Tây Ban Nha đã trải qua một thời kỳ phát triển nhanh (khoảng 5%/năm mà đầu tàu là các khu vực Catalonia và các tỉnh Basque. Tuy nhiên, giai đoạn này nhanh chóng rơi xuống đáy bởi một truyền thống khác của Tây Ban Nha: bộ máy quản lý yếu kém (điểm này rất giống Ý) và chính sách tiền tệ tồi, dẫn tới siêu lạm phát.
Sau đó, Tây Ban Nha từ bỏ giấc mơ “chơi một mình” để gia nhập IMF, OEEC và WB. Với sự giúp đỡ quốc tế (tiền và các chuyên gia), Tây Ban Nha bắt đầu trải qua phép màu kinh tế của riêng mình, phát triển các ngành công nghiệp trong nước như SEAT, du lịch và dịch vụ. Tất cả kết thúc với khủng hoảng dầu mỏ và việc chuyển sang nền dân chủ sau cái chết của Franco những năm 1970. Bộ máy quan liêu của Tây Ban Nha trở lại và, khiến nước này lần nữa đình trệ.
Lần phát triển tiếp theo là nhờ làn sóng tự do hóa và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước những năm 1980… cho tới khi sự quan liêu của Tây Ban trở lại (truyền thống rồi).
Tây Ban Nha cũng không phải nghèo đến thế, nhưng cơ sở hạ tầng thiết yếu của họ (đường bộ, cảng biển, điện…) vẫn chưa đủ phát triển. Hội nhập châu Âu (bắt đầu từ năm 1986) đã mang lại dòng vốn lớn và tri thức, cho phép cơ sở hạ tầng của nước này phát triển mạnh, với động lực từ các khu vực mà bạn đã biết.
Điều này mở đường cho lần bùng nổ thứ hai của Tây Ban Nha: bắt đầu ngay sau cuộc suy thoái toàn EU đầu những năm 1990, kéo dài đến khủng hoảng toàn cầu năm 2008. Do hậu quả của khủng hoảng, chính phủ Tây Ban Nha đã lên kế hoạch cho các biện pháp can thiệp lớn. Đúng như dự đoán, sự can thiệp của bộ máy nhà nước quan liêu đã khiến nó tồi tệ hơn (họ chẳng bao giờ học được bài học), thất nghiệp lan rộng và chính phủ Tây Ban Nha yêu cầu một gói cứu trợ 100 tỷ euro. Từ năm 2014, Tây Ban Nha đang trên đà phục hồi nhưng vẫn bị cản trở bởi bộ máy quan liêu thâm căn cố đế.
Trường hợp của Ý phức tạp hơn. Miền bắc Ý vẫn luôn là nguồn tập trung tri thức và trung tâm sáng tạo trong công nghiệp. Ý đã độc lập phát triển được điện thoại, radio, radar, ngành hàng không vũ trụ (người Ý đã giữ vài kỷ lục cho tới Thế Chiến II), và là quê hương của một số nhà khoa học vĩ đại như Fermi… Miền nam Ý, phần nằm dưới sự ảnh hưởng của Vương quốc Hai Sicilia, thì không được như vậy. Tổng thể toàn nước Ý luôn rơi vào tình trạng bất ổn chính trị và quản lý sai lầm. Sau Thế Chiến II, Ý đã trải qua một phép màu kinh tế.
Tuy nhiên, Ý đã rơi vào tình trạng hoài nghi về mặt chiến lược sau thời kỳ này. Dù có một số công ty dẫn đầu về chất lượng và công nghệ, Ý vẫn là nhà sản xuất giá rẻ của châu Âu. Điều này khá khó hiểu khi Bức Màn Sắt chưa sụp đổ và những con hổ châu Á chưa trỗi dậy. Hàng hóa của Ý rẻ và khá tốt, dù phí bảo trì thì chát. Mỗi khi hàng hóa mất đi tính cạnh tranh, giải pháp của Ý luôn là phá giá tiền tệ và in tiền. Điều này vận hành khá ổn… cho tới khi Bức Màn Sắt sụp đổ và hàng hóa giá rẻ từ phương Đông thay thế, cũng như hệ thống tỷ giá hối đoái cố định với các đồng tiền khác của EU (nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của đồng euro thống nhất). Những yếu tố trên và hệ thống quản lý quan liêu, thuế cao đã khiến Ý lâm vào trạng thái đình trệ kéo dài.
Cho tới cuối thập niên 1990, nợ chính phủ của Ý tăng khá đều đặn. Điều này dẫn tới thuế cao hơn và hệ thống ngày càng kém hiệu quả. Tốc độ thay đổi chính phủ chóng mặt ở Ý (trung bình khoảng 1 lần/năm) cũng gây ra nhiều vấn đề: chính sách tài khóa thay đổi nhanh chóng và các quy định thuế khó hiểu, khiến các doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận vốn và khó mà có được kế hoạch tài chính đàng hoàng. Gia nhập khu vực đồng euro gây ra tình trạng đầu cơ ngắn hạn, làm tăng lạm phát trong một số lĩnh vực trong khoảng hai năm. (Hai thập kỷ sau, người dân Ý vẫn tin vào huyền thoại rằng đồng euro là nguyên nhân gây lạm phát, dù Ý hiện đã có một thập kỷ lạm phát thấp nhất lịch sử).
Điều này dẫn đến gần hai thập kỷ đình trệ – nguyên nhân gây ra tình trạng chảy máu chất xám lớn nhất và tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao nhất từ thời phát xít Ý. Bất ổn chính trị và tình trạng quan liêu khó hiểu chưa có hồi kết, nên Ý khó mà sớm phục hồi.
Các vấn đề lịch sử của Bồ Đào Nha đến từ cả bệnh thích bóc lột thuộc địa (giống Tây Ban Nha) và sự bất ổn chính trị. Bồ Đào Nha từng là cường quốc tiên phong trong hàng hải và bóc lột thuộc địa. Tuy nhiên, nước này đã thất bại trong việc chuyển nguồn của cải đó thành những bước tiến về công nghệ. Nó có một thời kỳ phát triển ngắn sau Thế Chiến II, sau đó kết thúc bởi bất ổn chính trị và sự chấm dứt của chế độ thuộc địa – dẫn tới một làn sóng nhập cư lớn của người nghèo ở những nơi này vào Bồ Đào Nha. Kết quả là một cuộc suy thoái nặng nề đến hầu hết các bộ phận của nền kinh tế. Kinh tế nước này đã có một số đợt phục hồi ngắn hạn, nhưng thường kết thúc do đen đủi: một lần vì khủng hoảng năm 2008 và cần EU cứu trợ năm 2014 và lần cuối là ngay bây giờ do COVID-19 (Bồ Đào Nha gần đây đã tái khởi động thành công ngành du lịch và dịch vụ).
Theo: Hoàng Hải Đăng

