Ảnh: Đông Lào Dân Nữ
1. Đinh Tiên Hoàng bắn con
Đinh Tiên Hoàng, vị được toàn thư viết như thể một Tần Thủy Hoàng của Đại Cồ Việt: dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước thì qua vài bộ sử khác thì mới là sứ quân đầu tiên. Cụ nổi lên ở động Hoa Lư ngay trong năm 2 vua trị vì chứ không đợi khi nhà Ngô tan rã như các sứ quân khác.
Cụ có một hành động mà sử gia Ngô Thì Sĩ so sánh với Lưu Bang. Khi cụ cho con là cụ Đinh Liễn vào chầu, 2 vua bắt cụ Liễn làm con tin. Theo ĐVSK tiền biên: “Đánh hơn một tháng không thắng nổi, hai vua Ngô treo Đinh Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói:
“Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?”
Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn. Hai vua Ngô kinh sợ nói:
“Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì?”
2. Chuyện hôn nhân của Lý Chiêu Thánh và Trần Thái Tông
Cụ Chiêu Thánh sinh năm Mậu Dần (1218), bằng tuổi chồng trước Trần Thái Tông. Chuyện hôn nhân của cụ và cụ Trần Thái Tông là một trong những nghi vấn của lịch sử. Chúng ta đều biết cụ Trần Thủ Độ chính là người “đạo diễn” vở kịch “vợ nhường ngôi cho chồng”, chuyển hoàng quyền từ tay họ Lý sang họ Trần một cách êm thấm.
Tuy nhiên dường như không hề có lễ thành hôn của cụ, sử sách không có dòng nào ghi chép về điều đó, tất cả chỉ dựa trên thông tin của Trần Thủ Độ mà thôi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Trần Thủ Độ tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa cung, cử người coi giữ. Các quan đến chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: Bệ hạ đã có chồng rồi. Các quan đều nói được, xin chọn ngày vào chầu”.
3. Trần Thái Tông truy phong vợ làm hoàng thái hậu
Nhà Trần nổi tiếng phóng khoáng, gả vợ và thiếp cho bề tôi đó là chuyện thường ngày ở huyện. Cho nên, hẳn là chuyện truy phong vợ làm Hoàng thái hậu chắc cũng thường thôi.
Xem nào: Tháng 6 ÂL năm 1248, Hoàng hậu họ Lý mất, Trần Thái Tông truy phong cụ làm Thuận Thiên Hoàng Thái Hậu.
Về việc này, sử gia Ngô Thì Sĩ mắng không kịp dừng bút: “Cả một đời nhà Trần là vẫn gọi là đời không có nghi lễ. Việc truy tôn Lý hậu làm Hoàng thái hậu dễ thường cũng có; hành động sai lầm như vậy thật đáng chê cười!”. (KĐVSTGCM).
4. Trần Nghệ Tông tự so với Lưu Bang
Đến tháng 1 năm 1390, Chế Bồng Nga đem hơn 100 chiến thuyền đến thị sát trên sông Hải Triều. Hoàng đệ là Trần Nguyên Diệu đem quân bản bộ ra hàng vua Chiêm với hy vọng được người Chăm đưa lên làm vua. Cùng lúc đó, một nhà sư là Phạm Sư Ôn nổi lên đánh chiếm kinh đô, thượng hoàng và vua phải bỏ kinh đô mà chạy, cho triệu tướng Hoàng Thế Phương đang đóng ở Hoàng giang ra cứu. Không may cho Chế Bồng Nga, một tiểu tướng của ông tên là Bỉ Lậu Kê vì sợ tội đã ra hàng quân Trần, báo cho Trần Khát Chân biết là thuyền ngự của vua Chiêm sơn màu xanh lục. Khi mấy trăm chiến thuyền của Chế Bồng Nga và Nguyên Diệu kéo tới, Khát Chân cho tập trung súng bắn xối xả vào chiếc thuyền ngự, Chế Bồng Nga bị trúng đạn chết.
Trần Nguyên Diệu liền chặt thủ cấp vua Chiêm rồi chèo thuyền trở về bên quân Trần. Quân Chiêm thấy chủ tướng đã tử trận vội vàng chạy về Hoàng giang hợp với phó tướng của Chế Bồng Nga là La Khải. Viên đại đội phó trong đội quân Long Tiệp là Phạm Nhữ Lặc và người đầu ngũ là Dương Ngang giết Nguyên Diệu, cướp lấy thủ cấp Bồng Nga đem dâng nộp.
Trần Khát Chân sai bỏ vào hòm, cho phi ngựa đem đến hành tại ở Bình Than, tâu việc đánh được giặc. Sử kể rằng khi đầu Chế Bồng Nga được phó tướng Phạm Như Lạt đem vào trình giữa canh ba, thượng hoàng Nghệ Tông hoảng hốt nhỏm dậy tưởng mình đã bị vây bắt. Đến khi nghe được tin thắng trận, Nghệ Tông liền cho gọi các quan đến để xem cho kĩ. Các quan mặc triều phục, đến và hô “vạn tuế!”. Nghệ Tông nói:
“Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Sở Bá Vương, thiên hạ yên rồi!”
Tuy Lưu Bang là chân tiểu nhân nhưng loại chả hiểu kiểu gì như Trần Nghệ Tông mới khiến người chán nản.
5. Hồ Hán Thương được phong thái tử khi làm quan triều Trần
Hồ Hán Thương là con Hồ Quý Ly & Huy Ninh công chúa, cháu ngoại Trần Minh Tông. Tháng 1/1400, Hồ Quý Ly lập Hồ Hán Thương làm thái tử. Nhưng mà, đến tháng 3 nhà Trần mới mất.
6. Lê Thánh Tông muốn đọc nhật lịch
Nhật lịch tức là loại được sử quan ghi chép về những trải qua hàng ngày của một hoàng đế. Sau, sử quan lại dựa vào nhật lịch để viết chính sử cho nước nhà, sử ấy gọi là thực lục. Điển lễ xưa quy định, vua không bao giờ được xem nhật lịch cũng không được xem thực lục về triều đại của mình. Lễ ấy đặt ra cốt để khiến cho sử quan có thể dễ dàng viết cả việc xấu, lời dở của vua một cách trung thực và tự nhiên. Điển lễ ấy đúng sai thế nào, xin hãy miễn bàn, chỉ biết người xưa hiển nhiên là tuân thủ điển lễ xưa.
Thế nhưng, năm 1467, Lê Thánh Tông lại đòi xem nhật lịch. Cụ sai người thuyết phục sử quan Lê Nghĩa, dẫn từ chuyện Đường Huyền Tông đòi xem nhật lịch đến việc đọc để tự xét lại mình. Cuối cùng, cụ Nghĩa đồng ý: “Nếu thánh thượng thực lòng muốn tự sửa lỗi, đó là may mắn lớn lao không cùng cho xã tắc. Vậy thì đọc nhật lịch cũng là nghe thêm lời can ngăn trong khi ngỡ như không có ai can ngăn vậy”. Sau đó, dâng nhật lịch lên.
Tuy chuyện này trái lễ nhưng bậc quân chủ tự xét lại & tự sửa mình là việc tốt.
7. Lê Huyền Tông ban lệnh cấm thuốc lào
Theo Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn: “Từ năm Canh Tý niên hiệu Vĩnh Thọ (1660) đời Lê Thần Tông, người Ai Lao đem thứ cây ấy đến, dân ta mới trồng. Quan, dân, đàn bà, con gái đua nhau hút đến nỗi có người nhịn cơm 3 ngày còn chịu được, chứ nhịn hút thuốc một chốc là không chịu nổi.
Năm Ất Tỵ đời Cảnh Trị (1665), hai lần hạ lệnh nghiêm cấm hút thuốc, lùng bắt người trồng thuốc, bán thuốc hoặc hút trộm mà không tuyệt được. Nhiều người khoét tre làm điếu ống hoặc chôn giấu điếu sành xuống đất mà hút. Tàn đóm còn lại, thường gây hỏa tai. Lâu lâu bỏ lệnh cấm ấy, dân gian lại hút như thường.”
Thế mới thấy, người ban lệnh cấm hay chính lệnh cấm hút thuốc được ban ra với danh nghĩa Lê Huyền Tông. Huyền Tông Lê Duy Vũ – hoàng đế thứ 8 triều Lê Trung Hưng trị vì 9 năm (1662- 1671). Hưởng dương 17 năm.
8. Lê Gia Tông chỉ phong mẹ làm Chiêu Nghi
Sang đến Lê Trung Hưng, cái thời được xem là lễ chế nghiêm ngặt thì có cái chuyện phong mẹ làm… Chiêu Nghi. Đúng vậy, dưới cả tam phi: Quý – Minh – Kính và đứng đầu tam chiêu: Nghi – Dung – Viên. Cụ này là Lê Gia Tông.
Lê Gia Tông ở ngôi 4 năm. Sau khi đăng quang năm 1671, cụ phong cho mẹ nuôi Trịnh Thị Ngọc Lung làm Quốc Thái Mẫu nhưng mẹ đẻ không có được gì. Hành động này có lẽ khiến chúa Trịnh cực kỳ hài lòng nên cả Phủ Liêu và triều đình như trai ngậm ngọc. Đến tháng 7 ÂL năm 1674, ông vua này mới phong cho mẹ ruột làm Chiêu Nghi.
Ngược lại với chuyện của Trần Thái Tông, sử Nguyễn lại cảm thấy đây là chuyện bình thường. Sử gia nhà Nguyễn đã có phản ứng rất bình thản: “… Còn như Chiêu Nghi là hiệu cung giai, nay đem danh hiệu ấy tôn xưng mẫu hậu thì chẳng ra lễ nghi gì cả. Lúc ấy chính quyền trong tay họ Trịnh, vua nhà Lê có cử động việc gì cũng đều bị ngăn cản ức chế. Như thế thì việc này cũng không lấy gì làm quái lạ” (KĐVSTGCM).
Tuy nhiên, Lê Trung Hưng cũng là cái thời tôn ti đảo lộn. Phan Huy Chú từng “chởi um” lên vì cái kiểu sách phong cho nội & ngoại mệnh phụ mà phải có mặt vua Lê cho bằng được. Hoặc chuyện chúa Trịnh nhận kim sách sách phong Vương nhưng không quỳ.
Nguồn:
– Đại Việt Sử ký Tiền biên, Ngô Thì Sĩ, Viện nghiên cứu Hán Nôm, NXB Hồng Đức, 2011
– Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo
– Chuyện đế vương kỳ thú, Lê Thái Dũng, NXB VH TT, 2013
– Chuyện các vị vua Việt Nam, Lê Thái Dũng, NXB Hồng Đức, 2019
