Năm 1836, Nathan Mayer Rothschild, người đàn ông giàu có nhất thế giới đã chết vì nhiễm trùng vết thương. Bên cạnh đó, nhiều vị vua của nước Anh đã chết vì bệnh lỵ, đậu mùa, viêm phổi, thương hàn, lao và sốt rét. Các tổng thống Mỹ cũng không phải ngoại lệ: Tổng thống William Henry Harrison mắc bệnh ngay sau khi nhậm chức vào năm 1841 và tử vong vì sốc nhiễm trùng 31 ngày sau đó; Tổng thống James Polk thì qua đời vì dịch tả ba tháng sau khi rời nhiệm sở năm 1849. Gần đây hơn vào năm 1924, con trai 16 tuổi của vị tổng thống đương nhiệm thời điểm đó là Calvin Coolidge Jr. đã qua đời vì nhiễm trùng vết rộp do chơi tennis.
Thời điểm đó, nguyên nhân của dịch bệnh bị quy kết cho “chướng khí” (miasma) đến tận khi John Snow (1813-1858), nhà dịch tễ học đầu tiên, xác định rằng người London mắc bệnh dịch tả do sử dụng nước từ một ống dẫn nằm xuôi dòng nước thải. Bản thân các bác sĩ cũng từng là một mối nguy hiểm đối với sức khỏe người khác khi đi khám nghiệm tử thi rồi sau đó lại đến phòng khám, mặc áo khoác đen dính đầy máu khô và mủ để thăm khám vết thương của bệnh nhân bằng đôi bàn tay không rửa sạch và khâu các vết thương này lại bằng chỉ khâu mà họ giữ trong túi áo.
Vấn đề này tiếp diễn mãi đến khi Ignaz Semmelweis (1818-1865) và Joseph Lister (1827-1912) buộc các bác sĩ phải khử trùng tay và dụng cụ. Khử trùng, gây mê và truyền máu đã giúp phẫu thuật chữa bệnh hiệu quả và không còn là một màn tra tấn cắt xẻo. Thuốc kháng sinh, thuốc chống độc và vô số thành tựu y tế khác cũng tiếp tục đánh bại bệnh tật.
Trích “Khai sáng thời hiện đại”