Bể nước
Ngày 13 tháng 6 năm 1994, thứ Hai, trời quang.
Màu nền xanh thẳm, trăng tròn vành vạnh nằm ở góc trái của tấm áp-phích. Dưới ánh trăng, sóng biển khẽ nhấp nhô. Trên một mỏm đá ngầm, nàng tiên cá ngồi tĩnh lặng. Mái tóc xoăn màu hạt dẻ xõa ngang eo, một bàn tay ôm lấy cái đuôi thon dài. Nàng ngẩng nửa mặt, hướng về bầu trời đêm, như thể đang đợi chờ niềm hạnh phúc sắp sửa đến.
Tấp áp-phích vẽ tay này có vẻ là bút tích của thầy Châu. Bất kể là thầy ấy vô tình hay cố ý, không hề dùng ảnh thật của Mã Na để làm chủ đề cho tấm áp-phích, lòng tôi thầm cảm kích. Do thế mà tôi có thể nhìn vào tấm áp-phích này, thỏa thích tưởng tượng ra mình mới chính là nàng tiên cá xinh đẹp ấy.
Điều đó nghe có vẻ thảm thương. Nhưng tôi không thể nào kìm chế được bản thân. Giống như khi tôi nhìn thấy tấm áp-phích ở sân trường vào cái đêm hôm đó, phản ứng đầu tiên là: Nó là của mình, mình phải đem đó đi.
Nó đã đốt cháy cái thứ nào đó đã bị dập tắt thành đám tro tàn trong tôi. Tôi có thể cảm nhận được một cách rõ ràng, ánh lửa nhỏ lay lắt đó, đang từ từ bùng lên.
Ý nghĩa của nó đối với tôi, cao hơn việc ăn no cái bụng, được tắm rửa và mặc những bộ quần áo tinh tươm. Nó như thể mang hàm ý về một loại khả năng, là một tia sáng ở dưới lòng đất sâu thẳm, là một lối thoát khác ở dưới mạng lưới đường ống rối như tơ vò này.
Vincent không thể lý giải nổi hành động cầm nến, ngồi dưới tấm áp-phích mà nhìn ngắm suốt hàng giờ đồng hồ của tôi. Mặc dù gã có thể ngồi nhìn cùng tôi, nhưng mà, gã chỉ nhìn được có mấy phút là mất hết sự kiên nhẫn, quay sang nghịch mấy món đồ nhặt được, hoặc là ngủ ngáy o o. Tôi rất khó để giải thích cho gã biết tấm áp-phích này có ý nghĩa gì đối với tôi. Đồng thời, cũng cảm thấy áy náy vì không thể cùng gã đi làm do thiếu ngủ. Tuy nhiên, Vincent không hề bận tâm. Gã thậm chí còn giúp tôi bê cái đệm lại gần tấm áp-phích, để cho tôi vừa mở mắt ra là có thể trông thấy nó.
Gã không biết rằng, điều đó sẽ khiến cho ngọn lửa trong tôi ngày càng cháy rực.
Tôi nhận thức được một chuyện, khi cuộc sống của ai đó trở về 0, chỉ cần cô ta vẫn còn sống, thì mỗi ngày tiếp theo đều là phép tính cộng. Chiếc ấm nước nóng, đám móc quần áo và chiếc áo sơ-mi trắng kia, tất cả đều là “1”. Riêng tấm áp-phích, là “100”.
Chúng sẽ mở ra một cái hố trong tim tôi, mà cái hố ấy sẽ càng lúc càng lớn. Từ chịu đựng một cách bị động, đến dung nạp một cách chủ động. Tôi rất rõ, cái hố mang tên dục vọng đó không thể lấp đầy. Nó sẽ thôn tính tất cả những gì có thể đạt được. Nó đang nói rằng, ta muốn, ta muốn.
Ta muốn một đôi giày thể thao trắng.
Ta muốn chiếc váy trắng kia.
Thực tế thì, tôi bị chính bản thân mình dọa cho chết khiếp. Một âm thanh nói, ngươi không thể đòi hỏi nhiều hơn; Một âm thanh khác lại nói, tại sao lại không? Bọn chúng cứ thế tranh cãi không ngừng nghỉ, còn tôi thì lực bất tòng tâm. Nhất là khi Vincent không ở bên, cảm giác cả căn phòng đều là âm thanh của bọn chúng.
Đó xem chừng là một sự lựa chọn. Nhưng thực chất, khi đang do dự, tôi đã đưa ra sự lựa chọn rồi.
Thế là, trong một ngày nào đó, tôi ngồi trên tấm đệm, ngẩng mặt nhìn lên tấm áp-phích đó, nhìn vào sóng biển, nhìn vào đá ngầm, nhìn vào nàng tiên cá đang ngước lên trời một cách xa xăm. Ở sau lưng tôi, Vincent đang phát ra tiếng ngáy đều đều. Tôi xoay người lại, nhìn chăm chú vào khuôn mặt đầy khe rãnh và bộ râu rậm rạp mới mọc của gã.
Tôi vươn tay ra, khẽ ve vuốt trên khuôn mặt gã. Gã nheo mũi lại, chép cái miệng một cách mãn nguyện, tiếp tục chìm vào giấc ngủ sâu.
Vincent, cháu phải rời xa ông rồi.
****
Không khí náo nhiệt bên ngoài cửa phòng hội nghị. Mười mấy người đứng chen chúc ở hành lang, trông ai cũng tỏ ra mất kiên nhẫn, ồn ào chín người mười ý. Thái Vĩ xen vào giữa đám người đó, lớn tiếng hét: “Mau xếp thành hàng ngay ngắn. Đồng chí kia, dập điếu thuốc cho tôi, ở đây không được hút thuốc……”
Vương Hiến Giang ôm vai, dựa vào cửa, lặng lẽ nhìn vào đám người đang nhốn nháo đằng kia, thử tìm ra một biểu cảm bất thường trong những khuôn mặt bình thường. Bên cạnh anh ta, tờ nhãn “Vụ án giết người liên hoàn 5 – 24” dán trên cửa phòng hội nghị đã bị xé bỏ.
Đột nhiên, anh ta lớn tiếng quát: “Ngậm hết miệng lại cho tôi!”
Đám người đột nhiên im ắng. Thái Vĩ nhân cơ hội đẩy mấy người bên cạnh ra: “Xếp thành hai hàng, mau lên!”
Một người đàn ông trong số đó hỏi: “Đồng chí cảnh sát à, gọi chúng tôi đến đây rốt cuộc để làm gì?”
“Không cần hỏi nhiều.” Sắc mặt Vương Hiến Giang không chút biểu cảm, “Bảo các anh làm gì, thì các anh làm nấy.”
Người đàn ông lẩm bẩm vài câu một cách bất mãn rồi đứng vào hàng.
Lúc này, cánh cửa phòng hội nghị mở ra, lão Đỗ thò đầu ra ngoài, vẫy tay về phía Vương Hiến Giang: “Lão Vương, có điện thoại.”
Vương Hiến Giang bước vào phòng hội nghị, nhấc điện thoại đang đặt trên bàn: “Ai đó?”
“Thanh tra Vương Hiến Giang đó ạ? Tôi là Hứa Trường Minh ở đồn cảnh sát đường Tiểu Bắc.”
“À, chào anh. Có chuyện gì thế?”
“Bảng dữ liệu dân cư mà đồn cung cấp cho các anh, đã nhận cả rồi chứ?”
“Nhận được rồi. Sao thế?”
“Chỗ chúng tôi có tình hình mới.” Tiếng lật giấy truyền từ đầu dây bên kia tới, “Khi thông báo cho cư dân khu quản hạt đến Sở thành phố, có một người nói rằng mình không sống ở đây, căn hộ của người đó đã cho thuê rồi.”
“Là ai?”
“Thang Lạc Bình.”
Vương Hiến Giang cầm lấy tờ danh sách ở trên bàn, ngắm nghía một lượt, tìm thấy cái tên “Thang Lạc Bình”.
“Cái người tên Thang Lạc Bình này hiện đang sống ở đâu?”
“Ở đường Tứ Đạo.”
Vương Hiến Giang nhìn lên tấm bản đồ được treo ở phòng hội nghị — Đường Tứ Đạo cách rất xa “khu hoãn xung”.
“Hiểu rồi. Các anh có nắm được tên của người thuê nhà không?”
“Nắm được sơ sơ: Châu Hy Kiệt, nam, khoảng 35 – 36 tuổi, hình như là giáo viên của một trường học.”
“Đã rõ, không biết các anh có thể liên hệ với cái thầy Châu Hy Kiệt đó, bảo anh ta ngày mai đến Sở thành phố, tìm gặp thanh tra Vương Hiến Giang hoặc Thái Vĩ có được không.”
“Không thành vấn đề.”
Sau khi cảm ơn, Vương Hiến Giang cúp máy. Tiếp đến, anh ta đánh dấu X ở cái tên “Thang Lạc Bình” trên tờ danh sách.
Thái Vĩ và lão Đỗ lần lượt bước vào phòng hội nghị. Thái Vĩ trông thấy động tác tay của Vương Hiến Giang liền hỏi: “Thầy ơi, tình hình thế nào rồi?”
“Không có gì, điều chỉnh lại danh sách một chút.” Vương Hiến Giang vứt bút lên mặt bàn, “Những người cho gọi đến thế nào rồi?”
“Cục đăng kiểm đã sàng lọc ra 71 người, hôm nay sẽ cho loại trừ một nửa — 35 người, nửa còn lại mai tính tiếp. Hiện đã có 32 người đến.”
“Trong số những người chưa đến, có ai tên là Thang Lạc Bình không?”
Thái Vĩ nhìn vào tờ danh sách trên tay: “Có. Ở khu B.”
“Loại người đó ra. Hôm nay không cần phải đợi anh ta.”
“Những người chưa đến khác thì sao?”
Vương Hiến Giang hỏi ngược lại: “Theo em thì sao?”
Thái Vĩ ngớ người. Lão Đỗ bật cười: “Không đến chứng tỏ chột dạ, đỡ việc cho chúng ta thôi.”
Thái Vĩ có chút khó xử: “Cũng hòm hòm rồi, hay là chúng ta bắt đầu đi?”
Vương Hiến Giang nhìn lão Đỗ: “Xử lý thế nào?”
“Mười người một tổ, tôi dẫn đi lấy máu.” Lão Đỗ chỉ tay vào điện thoại trên bàn, “Thái Vĩ sẽ giúp tôi một tay, anh cứ ở đây đợi điện thoại là được. Xong một tổ sẽ báo lại cho anh, anh ở lại xếp người, rồi Thái Vĩ sẽ đến đưa họ đi.”
Thái Vĩ nghĩ một hồi: “Phải giải thích với bọn họ thế nào?”
Vương Hiến Giang bĩu môi: “Cảnh sát phá án thì cần gì phải giải thích, cứ bảo họ nghe theo là được.”
Thái Vĩ lè lưỡi, không nói gì nữa. Vương Hiến Giang vuốt tóc: “Lão Đỗ, nhanh nhất thì bao lâu mới có kết quả?”
“Tôi đã tính đến chuyện này.” Lão Đỗ trầm ngâm một hồi, “Cục 2 chắc chắn làm được, nhưng số lượng mẫu gửi đến không ít, khả năng sẽ tốn nhiều thời gian. Tỉnh Liêu Ninh từ năm 1988 đã có loại kỹ thuật này. Hay là anh báo cáo lên Phó giám đốc Hồ, thông qua Sở tỉnh để gửi tới Liêu Ninh xem, có khi sẽ nhanh hơn Cục 2 đấy.”
“Được.” Vương Hiến Giang đứng dậy, “Giờ tôi sẽ đi. Nếu anh không tìm thấy tôi thì nhắn qua máy nhắn.”
Lão Đỗ gật đầu, cùng Thái Vĩ đi ra. Vương Hiến Giang cũng đi theo hai người họ ra ngoài, nhìn thấy Thái Vĩ đang đứng đầu hàng để kiểm kê tổ đầu tiên. Anh ta chen qua đám người, đi về phía cầu thang.
Bước lên được một bậc, anh ta lại nhìn về hàng người dài dằng dặc đằng kia. Anh ta không biết liệu tên hung thủ đã tước đi sinh mạng của ba người có nằm trong đám kia không, càng không biết rằng giờ phút phá án đang gần ngay gang tấc, hay là xa tận chân trời.
****
Cố Hạo ngồi bên cạnh điện thoại bàn, lặng lẽ hút thuốc, thi thoảng lại nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường. Đã 15 phút trôi qua kể từ lần cuối cùng ông ta nhắn tin cho Thái Vĩ.
Cố Hạo dập điếu thuốc, quyết định sẽ không đợi nữa.
Ông ta kiểm kê lại áo mưa, găng tay, khẩu trang, đèn pin, pin và ủng trong bao tải. Sau đó, ông ta lại bỏ một túi bánh mì và một chiếc bình giữ nhiệt đựng đầy nước nóng vào trong. Sau khi cất xong bao thuốc và chiếc bật lửa, ông ta vắt bao tải lên vai, đứng dậy rời khỏi cửa.
Vừa chạm vào tay nắm cửa, chiếc điện thoại đặt trên bàn lại vang lên, Cố Hạo vội chạy tới, nhấc ống nghe lên.
“Alo?”
“Ba Cố, ba tìm con à?” Thái Vĩ có vẻ đang ở một nơi ồn ào, âm thanh hỗn loạn.
“Anh đang làm gì thế?”
“Con đang ở Sở làm việc.” Thái Vĩ đột nhiên hét lớn, “Im lặng hết cho tôi! Đóng cửa lại — Ba nói đi.”
“Ừm, anh cứ bận việc anh đi, lát nữa nói sau.”
“Không có gì đâu, ba mau nói đi, lát nữa con lại phải ra ngoài rồi.”
“Là thế này…… Vụ án mà anh đang phá, có ba thi thể nữ bị cuốn ra từ cống nước ngầm?”
“Đúng vậy.”
“Các anh đã thử xuống dưới cống để tìm chưa?”
“Xuống rồi.” Thái Vĩ có chút khó hiểu, “Ba hỏi cái đó làm gì?”
“Vậy thì, các anh có bản đồ đường cống ngầm hay gì đó tương tự không?”
“Có.” Thái Vĩ thốt lên một tiếng, “Ba Cố, cái cô bé hàng xóm nhà ba?”
“Đúng vậy. Tôi đã cho điều tra, nơi cuối cùng mà cô bé đó xuất hiện chính là ở dưới cống.”
“Nói vậy, cái huy hiệu trường đó có thể là của cô bé?”
“Hiện vẫn chưa biết được.”
“Không phải ba định chui xuống cống đó chứ?”
“Sự việc đến nước này, phải xuống dưới đó tìm thôi.”
“Cống nước thải hay cống nước mưa?”
“Hở?” Cố Hạo chần chừ một lát, “Cái này tôi cũng không rõ — Khác gì nhau không?”
“Học vấn bên trong thâm sâu lắm.” Thái Vĩ bắt đầu lên mặt, “Bố già à, đừng có manh động. Ở đó đợi con, đừng đi lạc đấy.”
“Cút! Mày nghĩ tao là trẻ con à?”
“Ba nghe lời con đi, ngồi nhà đợi. Con cúp máy đây, có việc phải đi rồi.”
Cố Hạo đặt ống nghe xuống, suy nghĩ một hồi, quyết định vẫn cứ xuống dưới đó xem sao.
****
Qua hai chặng xe buýt rồi lại đi bộ thêm một đoạn, nửa tiếng sau, Cố Hạo đã đến được tiểu khu nơi Khương Đình sinh sống. Cố Hạo xỏ đôi bốt, đi vòng quanh miệng cống một lượt, ngồi xổm xuống, đút ngón tay vào cái lỗ trên nắp cống, thử lôi nó lên. Nhưng mà, cái của nợ nặng trình trịch kia chỉ hơi lộ ra một khe hở. Ông ta đành bỏ cuộc, lúc nhìn ngó xung quanh để tìm kiếm, thì trông thấy Khương Đình đang chạy về phía mình.
Cô bé chạy hồng hộc, khi đứng trước mặt ông ta, mặt cô bé đỏ ửng.
“Sao cháu lại đến đây?”
“Cháu đứng trên nhà trông thấy ông.”
“Hôm nay không phải là thứ Sáu sao?” Cố Hạo nghĩ một hồi, “Sao cháu lại không đi học?”
“Khối 12 đang thi thử, họ tận dụng các lớp khối 10 và 11 để làm phòng thi.” Khương Đình đi đến bãi cỏ bên cạnh, nhặt lên một nhành cây ngắn ngủi, “Lần trước cháu dùng cái này.”
Cố Hạo nhận lấy nhành cây, nhét vào cái lỗ trên nắp cống, ra sức lẫy nó lên, kéo sang bên cạnh — Miệng hố đen ngòm liền lộ ra.
“Cảm ơn cháu.” Cố Hạo vứt nhành cây xuống, “Cháu về nhà đi.”
“Không.” Khương Đình ngó đầu nhìn xuống miệng cống, “Cháu sẽ đi cùng ông.”
“Không được.” Cố Hạo xua tay, “Cháu mau về nhà đi, đừng để mẹ phải lo lắng.”
“Mẹ cháu đi làm rồi.” Khương Đình làm mặt quỷ, “Mẹ không biết được đâu.”
Lúc này Cố Hạo mới để ý đến bộ đồng phục thể thao mà cô bé đang mặc, dưới chân đi đôi ủng tím đốm trắng — Xem ra đã có chuẩn bị.
“Vậy cũng không được.” Ông ta nghiêm mặt, “Cháu nghĩ xuống đó là để chơi à.”
Khương Đình móc từ trong túi ra mấy cuộn dây trắng, lắc lư về phía Cố Hạo: “Ông sẽ cần dùng đến cái này.”
Cố Hạo nheo mắt lại: “Gì thế?”
“Dây câu trước đây bố cháu dùng để câu cá.”
Cố Hạo suy nghĩ một hồi, xòe tay ra: “Cháu cũng chu đáo ra phết.”
Nhưng cô bé lại dấu cuộn dây câu ra sau lưng, nghiêng đầu nhìn ông ta, thái độ không nói cũng hiểu.
Cố Hạo đành chịu: “Xuống dưới đó, tất cả phải nghe theo lệnh của ông, bảo cháu làm gì thì phải làm nấy, rõ chưa?”
Khương Đình ném một cuộn dây câu cho ông ta, tiên phong đi về phía miệng cống, cho chân xuống, dẫm lên cái thang sắt.
Cố Hạo nhìn ngó xung quanh một hồi, thầm mong sẽ không ai trông thấy một ông già như mình dẫn theo một tiểu cô nương chui xuống cống.
Cống sâu khoảng 4 mét. Khương Đình đã xuống đến đáy cống, trông thấy Cố Hạo đang men theo cầu thang sắt để trèo xuống, vội đứng sang một bên để nhường đường.
Miệng cống trông có vẻ hẹp, nhưng bên trong lại rất rộng rãi. Tuy nhiên, ngoại trừ phạm vi ánh nắng chiếu qua miệng cống, bốn bề chỉ toàn một màu đen như mực. Cố Hạo phát hiện ra bọn họ đang ở trong một đường ống hình tròn bằng bê tông. Đường ống đủ để một người trưởng thành đi lại mà không cần khom lưng, bên dưới còn có vài vũng nước, cảm giác đi lại khá trơn trượt, chắc hẳn dưới đó có bùn. Ông ta lấy từ trong bao tải ra một chiếc đèn pin, lần lượt rọi sang hai bên trái phải, toàn là những đường ống không nhìn thấy điểm cuối.
Cô bé trông có vẻ vừa hưng phấn, lại có chút sợ hãi: “Ông Cố, đi về phía nào bây giờ?”
Cố Hạo nghĩ một hồi: “Cháu tìm thấy chùm chìa khóa ở đâu?”
Khương Đình hồi tưởng lại, chỉ xuống dưới chân: “Khoảng tầm chỗ này.”
Cố Hạo chiếu đèn pin vào mạn phải của đường ống: “Thử vận may vậy.”
Ông ta dặn dò Khương Đình buộc một đầu dây câu vào thang sắt, còn mình thì đeo găng tay len vào, cầm lấy cuộn dây.
“Bám theo sau ông, chú ý dưới chân.” Ông ta lại bổ sung thêm một câu, “Không được chạm vào bất cứ thứ gì.”
Khương Đình gật đầu.
Cố Hạo hít một hơi thật sâu, một tay cầm đèn pin, tay còn lại từ từ kéo sợi dây câu ra, bước sâu vào bên trong đường ống nước mưa.
Đi được mười mấy mét, ông ta lại ngoái đầu nhìn về miệng cống. Cột sáng đó đứng yên lặng tại chỗ, dường như mang theo cả sự ấm áp. Có một khoảnh khắc, Cố Hạo muốn lao về, lập tức rời khỏi cái nơi tối tăm, lạnh lẽo này. Nhưng mà, khi nhớ đến cảnh Tô Lâm đã lần mò dưới màn đêm này ra sao, ông ta lại quay người, nghiến răng nghiến lợi, tiếp tục lội qua vũng nước mà tiến về phía trước.
Chí ít mình vẫn còn nhìn thấy ánh sáng trước mắt; Chí ít mình còn có một người bạn đồng hành — Dù cô bé kia chỉ bám sát theo sau mình, một bước cũng không dám rời xa.
Quả thực, sau khi rời khỏi vùng sáng, dũng khí của Khương Đình đã biến mất một cách sạch sẽ. Trước mắt ngoài những nơi được ánh đèn pin rọi sáng, chỉ toàn là một màu đen kịt. Một chút an ủi mà bóng hình ông lão trước mặt đem lại, cũng chính là chỗ dựa duy nhất của cô bé ở trong cái nơi tối tăm này. Cô bé bắt đầu cảm thấy hối hận vì sự bồng bột nhất thời của mình. Thế nhưng, cô bé lại không muốn từ bỏ vào lúc này. Một cảm giác mãnh liệt nói với cô bé, rằng Tô Lâm vẫn còn ở đây.
Có lẽ vì sợ, Khương Đình mau chóng cảm thấy toàn thân lạnh toát. Nhất là đôi chân đang đi ủng. Vũng nước dưới cống như thể rất gần với điểm đóng băng, lạnh đến thấu xương. Cô bé đang nghĩ tại sao mình không đi một đôi tất dày, thì bỗng cảm thấy có thứ gì đó lướt qua chân mình.
Cô bé hét lên một cách bản năng, dùng chân dẫm đạp mạnh xuống vũng nước. Cố Hạo ngoái đầu: “Sao thế?”
“Có…… Có gì đó,” Mặt Khương Đình trắng bệch vì sợ hãi, hoảng hốt nhìn ngó xung quanh, “Bò qua chân cháu rồi.”
“Không sao.” Ngữ khí của Cố Hạo tỏ ra hời hợt, “Chắc là chuột ấy mà.”
Mặt Khương Đình càng tái đi: “Chỗ này có chuột sao?”
“Không thì cháu nghĩ bọn chúng sống ở đâu?” Cố Hạo cười, “Thế này đi, cháu lần theo sợi dây câu mà trở về.”
Khương Đình yên lặng độ vài giây: “Không.”
Cô bé đẩy tay Cố Hạo: “Đi thôi.”
Hai người tiếp tục men theo đường ống để tiến về đằng trước. Mới đầu, Cố Hạo còn để ý đến những vết tích ở trên vách cống. Sau đó, ông ta nhanh chóng từ bỏ cái suy nghĩ sẽ thu thập bất kỳ những manh mối nào. Nhìn vào vệt nước trên vách cống, mực nước khi dâng lên sẽ cao gần 1 mét, bất kể là thứ gì cũng sẽ bị gột rửa sạch mà không để lại dấu vết.
Ông ta không lơ là nữa, chuyên tâm lên đường. Khương Đình bám sát theo sau. Hai người như cam kết ngầm với nhau sẽ không ai nói gì. Trong cống, ngoài tiếng lội nước bì bõm và tiếng thở của hai ông cháu, thì không còn âm thanh nào khác.
Không khí trong này không hề trong lành, một mùi hôi khó diễn tả cứ quanh quẩn nơi đầu mũi. Cố Hạo bắt đầu cảm thấy choáng váng. Ông ta dừng lại, lôi từ trong bao tải ra hai chiếc khẩu trang để mình và Khương Đình đeo, sau đó tiếp tục tiến về phía trước. Bịt mũi tuy là có thể ngăn chặn tạm thời thứ mùi khiến người khác không mấy vui vẻ này, nhưng cũng làm cho việc hít thở trở nên khó khăn. Nửa tiếng sau, Cố Hạo đã thở không ra hơi. Khương Đình đằng sau cũng cùng chung số phận, bước chân trở nên chậm chạp.
Ông ta bắt đầu nghi ngờ bản thân không biết có thể kiên trì được nữa hay không. May là sau vài lối rẽ, thay một cuộn dây câu khác, cuối cùng cũng đến điểm cuối của đoạn đường ống này.
Trước mặt là một đường ống nằm ngang, cao hơn, rộng hơn, nối với đường ống nơi họ đứng bằng mấy bậc cầu thang. Cố Hạo cẩn thận bước xuống bậc đá hoa cương trơn trượt, xoay người lại để đỡ Khương Đình bước xuống. Sau đó, ông ta dùng đèn pin chiếc lần lượt sang hai bên trái phải — Vẫn là một màu đen không nhìn thấy điểm cuối.
Cố Hạo đứng tại chỗ tầm vài giây, đột nhiên hét lớn: “Tô Lâm!”
Tiếng la của ông ta bật đi bật lại vào vách cống, từ từ lan ra xa. Khương Đình giật nẩy mình, sau đó tập trung nín thở, chăm chú lắng nghe âm thanh bên trong cống.
Ở trong cái nơi sâu thẳm kia, vẫn là một sự tĩnh lặng chết chóc.
Khương Đình nhìn Cố Hạo: “Ông Cố, nên đi về hướng nào đây?”
Cố Hạo nghĩ một hồi, lại rọi đèn pin xuống dưới chân. Vũng nước trong cống đang trôi lững lờ về phía bên phải, xem ra lối ra ở đằng đó.
Hơn nữa, khi người ta mất phương hướng, hoặc khi cảm xúc căng thẳng tột độ, thường hay chọn bên phải. Cố Hạo xốc lại tinh thần, kéo dây câu ra rồi đi về bên phải.
“Đi thôi, hôm nay chúng ta sẽ đặt cược vào lối này.”
****
Ngoại trừ rộng rãi hơn, thì đường ống này không có khác biệt gì so với cái mà họ vừa đi qua. Nhưng mà, cái mùi khó ngửi đã dịu đi đôi chút. Cố Hạo kéo khẩu trang xuống dưới cằm, vừa cẩn thận kéo dây câu, vừa phập phồng cánh mũi mà tiến về phía trước.
Đi được một đoạn rất dài, khi cuộn dây câu thứ hai bị dùng hết, ông ta phát hiện ra một miệng ống ở trên vách cống, xem ra lại là một đường ống khác. Cố Hạo đoán, nơi họ đang đứng có lẽ là một đường ống chính trong hệ thống đường ống nước mưa dưới lòng đất của thành phố, đoạn ống họ vừa đi qua và đoạn ống vừa mới phát hiện ra này là một trong những đường ống nhánh. Điều đó hoàn toàn giống với những gì mà ông đã nghĩ. Cái hệ thống đường ống nước mưa chết tiệt này quả thật rắm rối và phức tạp. Thái Vĩ lo lắng ông ta “đi lạc”, không phải là không có lý do.
Cố Hạo thử tiếp tục tiến về phía trước, phát hiện cứ cách một đoạn là lại xuất hiện miệng đường ống nhánh ở hai bên vách đường ống chính. Điều đó nghĩa là, mỗi một đường ống đều có khả năng là hướng đi mà Tô Lâm đã từng qua.
Khương Đình cũng nhận ra được điều này. Khi đi qua tiếp một đường ống nhánh, cô bé trèo lên bậc thang, ngó vào bên trong đường ống. Sau đó, cô bé do dự một hồi, run rẩy gọi một tiếng: “Tô Lâm.”
Vẫn không hề có hồi âm.
Khương Đình cúi đầu, ủ dột bước xuống cầu thang.
Cố Hạo nhìn cô bé: “Mệt chưa?”
Khương Đình không nói gì, khẽ gật đầu.
Cố Hạo lôi từ trong bao tải ra chiếc áo mưa, phủ lên bậc đá hoa cương. Nghĩ một hồi, ông ta lại lót chiếc giày của mình xuống bên dưới, ra hiệu cho Khương Đình ngồi xuống. Sau đó, ông ta lấy bánh mì và bình nước ra, đưa cho Khương Đình.
Xem ra cô bé đói lắm rồi. Cô bé bẻ một mẩu bánh mì lớn, nhai hai ba miếng là hết sạch, rồi lại đổ nước nóng ra cái nắp của bình giữ nhiệt, uống từng hớp nhỏ.
Cố Hạo cũng ngồi xuống, ăn một miếng bánh mì, uống một ngụm nước nóng. Mặc dù có một lớp áo mưa ngăn cách, nhưng nền đá hoa cương lạnh giá, cứng cáp vẫn khiến người ta cảm thấy không thoải mái. Thế nhưng, Cố Hạo không muốn đứng dậy. Đôi chân tê mỏi rã rời cần được nghỉ ngơi, mặt khác, có một số việc ông ta cần nghĩ cho kĩ.
Trong đó, điều quan trọng nhất là: Tô Lâm còn sống hay không?
Giả thiết 1: Đứa bé vẫn còn sống. Thế thì, cô bé hẳn vẫn còn đang mắc kẹt trong mạng lưới đường ống nước mưa. Nếu không, một khi cô bé thoát ra ngoài, việc đầu tiên nó làm sẽ là chạy đi báo cảnh sát hoặc về nhà, đương nhiên là những chuyện sau đó cũng sẽ không xảy ra. Nhưng mà, đã quá lâu kể từ cái ngày cô bé mất tích, làm sao cô bé có thể sinh tồn được ở cái nơi này đây? Chí ít với những gì mà họ trông thấy, dưới đường cống ngầm ngoài nước, vẫn chưa phát hiện ra thứ gì có thể ăn được. Điều đó khiến cho khả năng xảy ra giả thiết 2 ngày càng lớn.
Giả thiết 2: Tô Lâm đã chết tại nơi này rồi. Đương nhiên, không ngoại trừ khả năng thi thể con bé bị những đợt mưa lớn cuốn trôi ra sông Lệ Thông. Tuy nhiên, kết quả điều tra của Thái Vĩ cho thấy, hiện tại trong phạm vi thành phố chưa phát hiện ra thi thể vô danh nào. Do đó, Cố Hạo vẫn cứ cố tìm ra một mùi nào đó lẫn trong bầu không khí vẩn đục này. Trên chiến trường năm xưa, ông ta không còn xa lạ gì với cái mùi kích mũi của những thi thể bị phân hủy. Mặc dù đã qua rất lâu, nhưng cái mùi đó một khi đã ngửi rồi thì sẽ không bao giờ quên được. Tuy hiện tại chưa có bất cứ phát hiện nào, song ông ta cần phải chuẩn bị sẵn tâm lý nếu chẳng may bắt gặp một khuôn mặt trợn trừng, xưng vù, thậm chí là cái xác thối rữa bị bọn chuột gặm nhấm.
Ông ta nhìn sang Khương Đình đang co ro bên cạnh. Cảnh tượng như vậy, bất luận thế nào cũng không được để đứa bé này trông thấy.
Mặc dù giả thiết 2 nhìn kiểu gì cũng dễ xảy ra nhất, nhưng mà, Cố Hạo vẫn đặt niềm tin vào giả thiết 1. Đó rõ ràng là một thứ hy vọng không có hy vọng. Cơ mà, hy vọng, là thứ đẹp đẽ nhất trên thế gian này.
Nếu như đứa bé còn sống, nhất định nó đang ở một nơi thích hợp nào đó trong mạng lưới đường ống nước mưa này để sinh tồn. Thế thì, bất luận là đường ống chính hay đường ống phụ, đều không đáp ứng được yêu cầu. Cái khác không nói, chỉ riêng vũng nước kia cũng đã khiến cho người ta không thể ở lại lâu hơn. Còn về đồ ăn, tạm thời tin là con bé có thể, và dám bắt chuột, thằn lằn hay gì đó tương tự để ăn.
Cố Hạo hút hai điếu thuốc, quay đầu nhìn Khương Đình: “Tiểu cô nương, cháu còn tiếp tục được nữa không?”
Khương Đình uống hết nước ở trong nắp bình, gật đầu.
Cố Hạo nhét áo mưa, giày, bình giữ nhiệt và phần bánh mì còn thừa vào trong bao tải, lại giăng dây câu ra: “Xuất phát thôi.”
Sự tìm kiếm không có điểm dừng một lần nữa bắt đầu. Vẫn vũng nước đó; vẫn vách cống bám đầy rêu phong đó; Vẫn bậc thang và đường ống nhánh đó; Vẫn là bóng tối và sự tĩnh mịch đó. Có lúc, Cố Hạo nghi ngờ bọn họ đang dậm chân tại chỗ, nếu không thì, tại sao cái đường ống chính này lại dài đến vậy.
Mỗi lần bắt gặp một miệng ống nhánh, bọn họ sẽ dừng lại đôi chút, chui vào bên trong một đoạn để tìm kiếm, sau đó lớn tiếng gọi tên Tô Lâm. Cái nơi quái quỷ này như thể có ma lực, khiến cho con người ta phải giữ im lặng một cách mất tự chủ, như thể chỉ cần phát ra tiếng động, là sẽ rước nộ từ những con quái thú đang rình rập sau màn đêm. Do đó, mỗi một lần hô hoán lại khiến họ — nhất là Khương Đình, hãi hùng khiếp vía. Cô bé khao khát cô bạn kia sẽ hồi âm, lại sợ một thứ âm thanh quái đản nào đó sẽ xuất hiện.
Lại tiến về phía trước không biết bao lâu, Cố Hạo đột nhiên dừng chân lại, đồng thời “Ê” lên một tiếng. Khương Đình ở đằng sau cũng dừng lại, thấy ông ta đang lấy đèn pin rọi xuống chân mình — Một đoạn dây câu đang đung đưa dưới vũng nước.
Bất giác, cô bé nhìn vào cuộn dây câu trong tay Cố Hạo. Cuộn dây câu chẳng còn gì ngoài chiếc lõi.
Cố Hạo nhặt sợi dây câu lên, quấn hai vòng quanh cuộn, chẳng nói chẳng rằng. Khương Đình hiểu ra, đây là cuộn dây cuối cùng, do đó công cuộc tìm kiếm ngày hôm nay đến đây là kết thúc. Cô bé không rõ thứ tâm trạng hiện giờ là thất vọng hay hạnh phúc nữa, chỉ lẳng lặng mà đứng đó.
Cố Hạo nghĩ một hồi, thử lên tiếng hỏi: “Cháu cầm lấy cuộn dây rồi đứng đây đợi ông, có được không? Ông sẽ tự tiến lên trước một đoạn.”
Khương Đình lập tức tròn mắt sợ hãi, lắc đầu lia lịa.
Cố Hạo không tỏ ra kiên quyết. Mặc dù muốn tìm ra bằng được, nhưng cũng thật khó nếu để tiểu cô nương này ở lại cái nơi tối tăm đó một mình. Chưa kể, ông cũng không yên tâm. Nhưng mà, ông ta vẫn có chút không cam lòng, nhưng cũng đành chịu, chỉ có thể dùng đèn pin rọi mấy phát về đằng trước, dự định sẽ rút quân về.
Đột nhiên, ông ta trông thấy thứ gì đó ở trên vách cống ở cách mười mấy mét ngoài kia, màu sắc của nó không giống với bức vách bê tông bên cạnh, hình dạng cũng có sự khác biệt.
Ông ta xoay người nói với Khương Đình: “Tiểu cô nương, cháu đứng đây đợi, ông sẽ về nhanh thôi.”
“Không đâu không đâu.” Cái đầu cô bé nguây nguẩy như trống lắc, “Cháu không muốn ở đây một mình.”
“Ngay kia thôi.” Cố Hạo chỉ tay về đằng trước, “Cháu có thể nhìn thấy ông mà.”
Khương Đình kéo tay áo ông ta: “Không đâu, cháu sẽ đi cùng ông.”
Cố Hạo đành chịu, suy nghĩ một hồi, lôi từ trong bao tải ra chiếc bình giữ nhiệt, áng chừng trọng lượng, quấn dây câu quanh thân bình rồi thả xuống vũng nước.
“Đi thôi.”
Vẫn là Cố Hạo đi đằng trước, Khương Đình bám theo sau, hai người từ từ tiến đến cái vị trí đã được chỉ định. Ánh đèn pin liên tục rọi vào vách cống. Gần tới nơi, Cố Hạo trông thấy một cánh cửa sắt hình tròn được mở, kích cỡ có thể chui lọt một người. Ông ta thò đầu vào trong, dùng đèn pin soi một vòng, phát hiện ra một cảnh vật ngoạn mục ở bên trong.
Sát với cánh cửa sắt là những bậc đá hoa cương, vũng nước đã dâng lên tới cửa, những bậc thang dưới cùng đều đã bị nhấn chìm trong làn nước. Vũng nước vẩn đục, sâu chừng 1 mét. Không gian ở cửa giống như một “hành lang”, nối liền với vùng không gian rộng lớn hơn ở sâu bên trong. Cố Hạo rọi đèn pin vào trong, chỉ có thể lờ mờ trông thấy bức vách bê tông bám đầy rong rêu, dưới góc tường hình như còn treo một cái thang sắt.
Nơi này trông giống như một bể chứa nước khổng lồ.
Khương Đình ló nửa người ra từ sau lưng ông ta, hiếu kì nhìn ngó xung quanh.
“Nhiều nước quá……” Cô bé đột nhiên khịt mũi, nhíu mày, “Mùi gì đây vậy?”
Cố Hạo không nói gì, chỉ ra hiệu cho cô bé đứng ở bên ngoài cánh cửa sắt, tiếp tục dùng đèn pin để rọi vào mặt nước tĩnh mịch.
Ông ta đã sớm ngửi thấy cái mùi khó ngửi phảng phất trên mặt bể — Nó đủ để đánh thức kí ức khứu giác trong ông về mùi thi thể.
Thứ gì đó đã chết ở đây. Bất luận là người hay động vật, chắc hẳn nó đã trương phình, trôi nổi trên mặt nước.
Nhưng mà, nhìn vào phạm vi soi sáng của đèn pin, mặt nước tĩnh lặng như tờ, ngoài trông thấy mấy nhành cây và chiếc lá khô, thì chẳng còn gì khác.
Không lẽ lại chìm dưới đáy nước?
Trang bị hiện tại không phù hợp để lặn xuống nước tìm kiếm. Vả lại, dù cho có phát hiện được gì, ông ta cũng không muốn Khương Đình trông thấy. Muốn biết cái mùi thối của xác chết đến từ đâu, e chỉ có thể đợi hôm sau rồi tìm tiếp. Cố Hạo quay người lại, phát hiện con bé nha đầu Khương Đình này lại lén mò vào bên trong, đang nhìn xuống bên cạnh chỗ bậc thang.
“Không có gì ở đây cả, chúng ta đi ra thôi.”
“Ông Cố,” Khương Đình vẫn giữ nguyên tư thế khom lưng cúi đầu ban nãy, chỉ vào bậc thang, “Đó là cái gì?”
Cố Hạo dùng đèn pin rọi qua, phát hiện ra ở góc giữa bậc thang và vách tường, có một đống gì đó đen ngòm đang ngâm mình dưới vũng nước.
Ông ta quan sát kỹ lưỡng, nhưng vẫn không nhìn ra nó là thứ gì. Cố Hạo do dự một hồi, nằm xuống bậc thang, vươn tay ra hết cỡ để tóm lấy cái thứ đó.
Cái cảm giác trơn trượt đáng ghét xuất hiện trên ngón tay ông ta, món đồ này đã ngấm đầy nước, trở nên nặng trịch.
Cố Hạo nhặt nó lên bậc thang, giũ nó ra, phát hiện đó chính là một chiếc áo khoác dạ nữ màu tím sẫm. Ông ta ngắm nghía một hồi, ngẩng đầu nhìn Khương Đình.
“Các cháu đi học không được phép mặc loại áo này nhỉ?”
“Vâng.” Khương Đình nhìn chiếc áo khoác dạ ướt nhẹp, cau mày, “Bắt buộc phải mặc đồng phục.”
Cố Hạo nghĩ một hồi, dùng mũi chân để hất chiếc áo ra cửa: “Hôm nay đến đây thôi, giải tán.”
Hai người trở về đường ống chính, tìm đến bình nước giữ nhiệt được quấn dây câu, bắt đầu đi ngược trở về. Có dây câu dẫn đường, cộng thêm việc bọn họ không có tâm trạng để dừng chân, nên tốc độ nhanh hơn nhiều so với lúc đến.
Cuối cùng, bọn họ cũng trông thấy cột sáng rọi xuống lòng đất. Cố Hạo tháo dây câu ra khỏi thang sắt, đỡ Khương Đình trèo lên thang. Nhưng mà, cô bé vừa mới thò đầu ra ngoài liền không nhúc nhích, đôi chân thon dài dừng lại trên cái thang. Cố Hạo không hiểu tại sao cô bé lại đứng đơ ra đó, chỉ biết liên tục thúc giục. Mãi mới đợi được cô bé chui ra ngoài, Cố Hạo cũng trèo ra khỏi miệng cống, đang định hít thở bầu không khí trong lành một cách sảng khoái, ông ta liền trợn tròn mắt, chết lặng.
Khương Ngọc Thục đứng ở miệng cống, khuôn mặt giận dữ nhìn ông ta.
“Lão Cố,” Khương Ngọc Thục đứng trên cao nhìn xuống, ngữ khí hùng hổ hăm dọa, “Tôi cứ tưởng là mình đã nói rõ cho bác rồi, mẹ con tôi không muốn dính líu tới chuyện này.”
“Cô…… Cô đừng nóng giận, hãy nghe tôi giải thích.” Cố Hạo bám hai tay lên mặt đường, “Cho tôi ra ngoài cái đã.”
Khương Ngọc Thục “hừm” một tiếng, đứng tránh sang một bên.
Cố Hạo trèo ra khỏi miệng cống một cách thê thảm. Đứng dưới ánh nắng, ông mới phát hiện ra trên người mình và Khương Đình bám đầy bụi bặm, mạng nhện, rác rưởi, còn tỏa ra một mùi khó ngửi.
Khương Đình đan hai tay vào nhau, thấp thỏm đứng bên cạnh mẹ: “Mẹ, mẹ không đi làm ạ?”
“Đi làm? Mẹ về để nấu cơm hầu con đấy!” Khương Ngọc Thục không nén được cơn giận, “Con có biết mẹ tìm con lâu thế nào không?”
“Tiểu Khương, cô đừng trách cháu nó.” Cố Hạo phủi đám bụi trên người, “Đều là do tôi không tốt……”
“Đương nhiên là do bác không tốt!” Khương Ngọc Thục lại quay sang ông ta, “Dẫn một đứa bé đến cái nơi nguy hiểm như thế, bác có nghĩ đến hậu quả không?”
Khương Đình khẽ lẩm bẩm: “Không nguy hiểm chút nào đâu mẹ, chỉ hơi tối thôi……”
“Tôi làm vậy quả thực có lỗi.” Cố Hạo cúi người về phía Khương Ngọc Thục, “Tiểu Khương, tôi xin lỗi.”
“Sao mẹ lại trách ông Cố?” Khương Đình trông thấy bộ dạng khốn cùng của Cố Hạo, gào lên bất mãn, “Là tự con muốn đi.”
“Có gì để mà khoe? Tưởng hay lắm hả?” Khương Ngọc Thục đẩy Khương Đình ra, “Nếu không vì vội về nhà nấu cơm, mẹ đã……”
“Mẹ chỉ suốt ngày biết nấu cơm!” Khương Đình chỉ xuống chân, “Mẹ có nghĩ tới Tô Lâm không? Mẹ có nghĩ là bạn ấy không có cơm mà ăn không?”
Nói đoạn, Khương Đình xoay người bước đi.
Khương Ngọc Thục nhìn cô con gái, rồi lại nhìn Cố Hạo, sau đó vội đuổi theo con bé.
Cố Hạo khuyên cũng không được, mà không khuyên cũng không được, chỉ biết đứng nhìn hai mẹ con biến mất dần ở lối rẽ dưới chân tòa nhà. Ông ta thở dài một cái, cúi người đậy chiếc nắp cống lại. Sau đó, ông ta thay giày, kéo khẩu trang và găng tay xuống, chầm chậm đi về phía ngoài khuôn viên.
****
Cơ thể lấm lem cộng với cái mùi hôi thối đập vào mũi, Cố Hạo đành từ bỏ cái suy nghĩ ngồi xe buýt để trở về nhà. Đi bộ gần một tiếng, cuối cùng ông ta cũng về đến nhà. Sau khi rửa mặt mũi chân tay, ông ta vất bao tải và đống quần áo giày dép bẩn thỉu vừa mới thay ra vào góc tường. Vốn định nằm nghỉ nửa tiếng rồi dậy làm cơm, nhưng vừa đặt đầu xuống gối là ông ta liền chìm vào giấc ngủ.
Khi tỉnh dậy, trời đã xẩm tối. Cố Hạo nằm yên trên giường độ mười mấy phút rồi bò dậy một cách nặng nhọc, suy nghĩ xem nên kiếm cái gì để lấp cái bụng rỗng tuếch này.
Vừa mở tủ lạnh ra, ông liền nghe thấy tiếng đập cửa gấp gáp truyền tới. Xoay người mở cửa, Thái Vĩ liền lao vào, quan sát ông ta một lượt, cắm đầu hỏi: “Sao ba không nghe máy?”
Cố Hạo ngớ người: “Ngủ nãy giờ vừa mới dậy, chắc là không nghe thấy. Có chuyện gì?”
“Con cứ tưởng ba xảy ra chuyện gì rồi.” Thái Vĩ thở dài một cái, “Xong việc là con vội đến đây ngay.”
“Anh cũng chưa ăn hả?”
“Ba đoán xem?” Thái Vĩ trả lời không mấy vui vẻ, ngồi phịch xuống giường, khịt khịt mũi, “Cái mùi gì vậy?”
Sau đó, ánh mắt cậu ta đổ dồn về đám quần áo giày dép bẩn thỉu ở góc tường, ngay lập tức hiểu ra vấn đề.
“Ba Cố, đúng là ba không chịu nghe lời.” Thái Vĩ cau mày, “Đã bảo với ba là không được đi một mình rồi.”
“Tôi xuống thám thính chút thôi mà.” Cố Hạo lấy từ trong tủ lạnh ra hai quả trứng, “Mỳ tương đen(27) nhé, tôi với anh ăn tạm, được không?”
“Tùy.” Thái Vĩ mở cửa sổ, bước đến bên bao tải, ngồi xổm xuống nhìn, “Ba chuẩn bị cũng chu đáo đấy. Có phát hiện được gì không?”
“Phát hiện được cái khỉ gì. Mạng lưới đường ống nước mưa rộng quá, tôi không đi được xa.” Cố Hạo lấy chiếc tạp dề treo trên tường xuống, “Chỉ tìm thấy một thứ giống như bể chứa nước, mò được một cái áo khoác dạ.”
Thái Vĩ ngẩng đầu, chớp chớp mắt: “Áo khoác dạ?”
“Ừm, màu tím, của nữ.” Cố Hạo bước ra ngoài cửa, “Cũng không biết là của ai, trông có vẻ còn mới.”
Thái Vĩ túm lấy ông ta, hai mắt mở to: “Ba nói lại xem?”