NHẬT KÝ NỮ PHÁP Y – VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI TRONG GIA ĐÌNH (PHẦN 3/4)

5.

10 giờ tối ngày 7 tháng 6 năm 2013.

Tại nhà Lâm Mai Đình.

Chúng tôi chọn địa điểm đối thoại ở nhà Lâm Mai Đình, mà không triệu tập họ đến Sở Cảnh sát, mục đích là để gây thêm áp lực tâm lý cho họ. Vụ án trước mắt đã tương đối rõ ràng, Hoàng Tứ Hải bị hại khi đang ngủ trong phòng ngủ nhà mình, mà khi đó trong căn nhà này ngoại trừ ông ta ra thì chỉ có ba người, vậy nếu ban đêm không có người ngoài lẻn vào, hung thủ chắc chắn sẽ là một trong số ba người Lâm Mai Đình, Hoàng Oanh và Hứa Văn Hữu, hoặc là hai thậm chí cả ba người liên thủ để gây án.

Mà cả ba người họ đều chứng thực trong khoảng thời gian Hoàng Tứ Hải ngủ không hề có ai khác đến nhà cả, mà chìa khóa căn nhà này chỉ Hoàng Tứ Hải và Lâm Mai Đình mới có, công tác bảo an ở tiểu khu cũng vô cùng nghiêm mật, camera giám sát đã chứng thực trong khoảng thời gian Hoàng Tứ Hải bị hại không có ai ra vào nhà họ cả.

Công việc cảnh sát cần làm tiếp theo chính là lần theo manh mối, tìm ra hung thủ thật sự trong số ba kẻ tình nghi.

Theo yêu cầu của cảnh sát, người nhà nạn nhân đồng ý bảo quản thi thể Hoàng Tứ Hải trong tủ đông thêm 24 tiếng đồng hồ nữa, sau đó bắt buộc phải hỏa táng đưa tang, để người chết được yên nghỉ. Hay nói cách khác, cảnh sát chịu một áp lực khổng lồ trong 24 tiếng đồng hồ phải tìm ra chân tướng của vụ án.

Nghi phạm đầu tiên chúng tôi đối mặt là Lâm Mai Đình.

“Theo những gì chúng tôi nắm được, Hoàng Tứ Hải khi còn sống đã ngủ riêng với bà mười mấy năm, có thể kể cho chúng tôi biết nguyên nhân vì sao được không? Đây là vấn đề riêng tư, nhưng vì nhu cầu phá án, mong bà hãy thẳng thắn nói ra.” Thẩm Thư mở đầu câu chuyện, đi thẳng vào vấn đề cốt lõi.

Rõ ràng Lâm Mai Đình tỏ ra né tránh câu hỏi này, răng cắn chặt môi dưới, im lặng hồi lâu mới nói: “Thực ra nguyên nhân các cậu cũng biết rồi, ông ấy có một tật xấu, cứ đi ngủ là bật đèn, mà tôi khi ngủ lại rất sợ sáng, thói quen sinh hoạt của hai người xung đột, ngủ riêng là cách giải quyết tốt nhất.”

Tôi lắc đầu, thể hiện mình không tin vào lời của Lâm Mai Đình, lại đưa cho bà ta xem một bản báo cáo chẩn đoán: “Đây là báo cáo chẩn đoán của Hoàng Tứ Hải mà chúng tôi phải thức thâu đêm mới thu thập được từ bệnh viện, thói quen ông ấy bật đèn khi ngủ được hình thành cách đây 11 năm khi còn ở trong tù, bác sĩ chẩn đoán là hội chứng sợ không gian kín, nhưng hai người đã ra ngủ riêng từ trước đó rất lâu rồi, cho nên sợ sáng không phải là nguyên nhân chủ yếu để hai người ra ngủ riêng.”

Mặt Lâm Mai Đình đỏ bừng, có chút tức giận, nói: “Các cậu đã nắm rõ thế, còn hỏi tôi làm gì? Nói thật cho các cậu biết, đến bây giờ tôi vẫn cho rằng, các cậu kiên quyết bảo lão Hoàng nhà tôi bị người ta hại chết, căn bản là muốn kiếm chuyện với chúng tôi, để ông ấy chết rồi mà vẫn không yên. Cậu bảo có người báo án, thế người báo án ở đâu? Bảo hắn đến đây để cùng tôi đối chất.” Lâm Mai Đình càng nói càng kích động, đến cuối cùng giọng nói lại có phần thảm thiết.

Thẩm Thư giữ nguyên sự im lặng, đợi cho cảm xúc của bà ta được trút bỏ và có phần nguôi ngoai rồi mới nói: “Hoàng Tứ Hải đứng tên hai căn nhà, một là căn nhà hiện giờ mọi người đang ở, một là căn biệt thự biệt lập nằm ở ngoại ô thành phố. Theo chúng tôi được biết, căn biệt thự kia không hề bỏ trống, mà có một người phụ nữ cùng một đứa con sống ở đó. Bảo an khu dân cư đã chứng thực, hàng tháng Hoàng Tứ Hải đều qua đêm ở đó mấy ngày, cho nên người phụ nữ kia rất có thể là vợ bé của ông ta. Là vợ chính thức của Hoàng Tứ Hải, bà có biết về chuyện này không?”

Cảm xúc của Lâm Mai Đình lại trở nên bất an và nóng nảy: “Các cậu cũng biết không ít chuyện đấy nhỉ, nhưng mà khiến cậu thất vọng rồi, người phụ nữ mà cậu nói tôi chưa từng nghe qua, vợ bé gì chứ, chỉ là suy nghĩ chủ quan của cậu mà thôi.”

Thẩm Thư biết rõ bà ta đang nói dối, không vội tranh luận cùng bà ta, thuận theo mạch suy nghĩ của mình mà nói: “Chúng tôi có lý do để tin rằng, bà và Hoàng Tứ Hải ra ngủ riêng là vì ông ấy đã có vợ bé, chẳng còn đoái hoài đến bà nữa.”

Thẩm Thư nói toạc móng heo, nhưng Lâm Mai Đình lại không hề kích động, cười khẩy đáp: “Nên cậu cho rằng tôi đã hại chết lão Hoàng? Cứ cho là người phụ nữ mà cậu nói thực sự tồn tại, nói theo cách của các cậu, cô ta và lão Hoàng đã sống với nhau mười mấy năm rồi, tại sao tôi phải đợi đến giờ này mới ra tay? Cậu định bảo vệ lập luận của mình thế nào đây?”

Thẩm Thư không trả lời câu hỏi của bà ấy, lôi ra một tờ giấy viết đầy chữ rồi nói: “Đây là lời khai mà chúng tôi mới lấy được từ Vương Bổn Hảo và tài xế của ông ta cách đây 3 tiếng, chính là hai người đã chở Hoàng Tứ Hải về nhà vào tối hôm ông ấy sinh nhật, bà đều quen cả. Bọn họ đã chứng minh Hoàng Tứ Hải tối đó không ăn mừng sinh nhật với mẹ con bà, là vì ông ấy ở cùng người phụ nữ và đứa bé kia, đến hơn 11 giờ tối, uống say bét nhè. Người phụ nữ kia tên là Liêu Xuân Hoa, 36 tuổi, đứa bé tên là Hoàng Minh Chí, 9 tuổi, lúc đó Vương Bổn Hảo cũng có mặt. Tôi đoán tối đó bà đã chờ mãi mà Hoàng Tứ Hải không về, cô con gái lớn và cậu con rể út cũng ở nhà cùng bà chờ đợi mòn mỏi, tâm trạng hụt hẫng thế nào không nói cũng biết. Với cả mẹ con bà chắc cũng đoán được, Hoàng Tứ Hải đang ở cùng Liêu Xuân Hoa.”

Hai mắt Lâm Mai Đình đỏ hoe, không biết là phẫn nộ hay đau khổ, giọng nói cũng run lên: “Cậu cứa vào vết sẹo của tôi, vì muốn chứng minh tôi đã giết hại Hoàng Tứ Hải trong lúc nóng giận ư? Vậy cậu nói xem, tôi giết hại ông ấy kiểu gì? Dùng cách nào mới có thể khiến ông ấy chết như thể bệnh tim tái phát? Đến pháp y của cảnh sát các cậu cũng nhận định lão Hoàng chết vì bệnh tim, thì các cậu dựa vào cái gì để nghi ngờ tôi?” Bác sĩ pháp y làm giám định cho thi thể của Hoàng Tứ Hải quả thực đã đưa ra kết luận nạn nhân chết vì bệnh tim đột phát. Mà hàm lượng Ka-li trong máu nạn nhân vượt mức cho phép, và ý kiến nghi ngờ do ngộ độc Succinylcholine vẫn chưa có kết luận cuối cùng, cho nên vẫn chưa thông báo cho Lâm Mai Đình biết.

Thẩm Thư không trực tiếp trả lời câu hỏi của bà ta, mà hỏi: “Trước khi về hưu bà là một y tá?”

Lâm Mai Đình đáp: “Đúng thì làm sao?”

Thẩm Thư lấy ra một miếng mô người giả y tế được chuẩn bị từ trước, chiều ngang và chiều dọc đều khoảng 30cm, là phần thân trên cơ thể người, lại lấy ra một kim tiêm chứa thuốc, nói: “Mời bà hãy tiêm lên miếng mô người giả này.”

Lâm Mai Đình rất kinh ngạc: “Cậu làm cái trò gì vậy?”

Thẩm Thư đặt kim tiêm vào tay bà ấy, ánh mắt sáng ngời nhìn chằm chằm vào bà ta.

Lâm Mai Đình bị ánh nhìn của cậu ấy làm cho gượng gạo, nhận lấy kim tiêm, miệng lẩm bẩm: “Tiêm thì tiêm, không làm gì khuất tất thì có gì mà phải sợ.” Vừa nói, vừa dùng tay phải để đẩy mũi tiêm, ép không khí bên trong ống tiêm ra ngoài, sau đó dùng ngón trỏ và ngón giữa tay phải để kẹp ống tiêm, dùng ngón cái để từ từ bơm thuốc vào trong.

Khi thuốc được đẩy vào gần một phần ba, tôi nói: “Được rồi.” Lâm Mai Đình liếc nhìn tôi, rút mũi tiêm ra, vứt lên bàn uống nước trước mặt.

Tôi nói: “Trước khi về hưu bà là y tá trưởng của bệnh viện, nhưng cách bà cầm kim tiêm hình như có hơi khác so với thủ pháp tiêu chuẩn, bà đã được bồi dưỡng chuyên khoa chưa vậy?”

Lâm Mai Đình bực bội đáp: “Cách cầm kim tiêm thì có gì mà quan trọng? Trước khi về hưu, tôi từng là người có tay nghề cao nhất về nghiệp vụ tiêm ở bệnh viện đấy, chuyên phục vụ cho các cán bộ cấp cao.”

Tôi hỏi: “Bà thuận tay trái à?”

Lâm Mai Đình không nói gì, khẽ gật đầu coi như thừa nhận.

Căn phòng im lặng phút chốc, Thẩm Thư lại hỏi: “Tối hôm Hoàng Tứ Hải mất, bà ngủ có ngon không? Có nghe thấy động tĩnh gì không?”

Lâm Mai Đình cố gắng nhớ lại: “Không nghe thấy động tĩnh gì cả. Hơn 2 giờ đêm tôi thức dậy một lần để đi vệ sinh, thấy cửa phòng lão Hoàng đóng, nên không vào phòng ông ấy. Ông ấy không thích bị người khác làm phiền khi ngủ, nếu bị đánh thức là sẽ la lối om sòm, chúng tôi rất sợ ông ấy nổi cáu.”

Tôi và Thẩm Thư quay sang nhìn nhau, Thẩm Thư gật đầu, nói: “Bác Lâm, cảm ơn bác đã phối hợp điều tra với chúng tôi, sau này chúng tôi nhớ ra điều gì sẽ lại tìm đến bác. Phiền bác ra ngoài, bảo Hứa Văn Hữu vào đây hộ tôi.”

Hứa Văn Hữu vẫn mặc bộ quần áo từ tối hôm qua, nhưng nhăn nhúm hơn, càng trông lôi thôi luộm thuộm. Tôi nhớ lại bộ dạng mảnh mai của Hoàng Yến, kiểu gì cũng không thấy có chút liên hệ nào với cái tên đàn ông hèn hạ này, bèn nghĩ, duyên số trong nhân gian, không biết đã có bao nhiêu cặp đôi bị ông tơ bà nguyệt ghép nhầm.

Từ lúc Hứa Văn Hữu bước vào phòng là không ngừng cúi đầu khom lưng, mặt nở nụ cười, lia lịa gọi “Thủ trưởng”. Tôi không nhịn nổi cười, nhưng lén nhìn bộ dạng nghiêm túc của Thẩm Thư, chỉ đành nén cười vào trong.

Đầu tiên Thẩm Thư hỏi về tình trạng cá nhân của Hứa Văn Hữu, bao gồm độ tuổi, quê quán, bố mẹ và nghề nghiệp, vv… Hứa Văn Hữu bảo năm nay cậu ta 32 tuổi, quê ở Diên An – Thiểm Tây, bố mẹ đều ở nhà làm nông, cậu ta đến Sở Nguyên làm việc được mười mấy năm rồi, làm qua rất nhiều công việc, công nhân xây dựng, tạp vụ quán cơm, khuân vác bến tàu, chỉ cần có thể duy trì sinh kế, việc gì cậu ta cũng chịu làm. Do bị kinh tế ràng buộc, cậu ta và Hoàng Yến mãi vẫn chưa có con, cậu ta cứ mơ mộng có thể kiếm được một công việc dưới chân Hoàng Tứ Hải, có một thu nhập ổn định. Nhưng Hoàng Tứ Hải lại không đoái hoài gì đến cậu ta, hiếm khi mới gặp một lần, cũng chẳng nói với nhau được quá hai câu, chuyện tìm việc đã ấp ủ trong lòng Hứa Văn Hữu từ rất lâu, mãi mà không nói ra được. Cậu ta vốn định nhân ngày sinh nhật của Hoàng Tứ Hải để nói ra nguyện vọng đó, nhưng không ngờ mọi chuyện lại thành ra thế này.

Thẩm Thư cau mày nói: “Hoàng Tứ Hải chỉ có hai người con gái, cứ cho là bên ngoài có con riêng, nhưng dù sao cũng là cốt nhục mà mình đẻ ra, tại sao ông ấy lại nhẫn tâm với cô con gái út như thế? Giữa bố con họ có mâu thuẫn gì không thể hóa giải à?”

Hứa Văn Hữu khi nói chuyện cố ý nặn ra một nụ cười, ngũ quan bị ép thành cục: “Hoàng Yến đã từng nhắc đến chuyện này, nhưng không nói rõ, tôi cũng chỉ lờ mờ biết được chút ít. Nguyên nhân khiến hai bố con họ từ mặt nhau là vì cái người đàn bà bên ngoài của bố vợ tôi. Hoàng Yến đã cãi nhau với bố vợ tôi mấy lần, bảo ông ấy chấm dứt với người đàn bà kia đi, bố vợ tôi không nghe, còn động thủ đánh Hoàng Yến. Lần thứ hai ngồi tù, bố vợ tôi phạm tội không nhỏ, nhưng đã bỏ không ít tiền để chạy án, đầu não của các cơ quan công – kiểm – pháp đều đã được khai thông, vốn dĩ sẽ không sao, kết quả bị Hoàng Yến vạch trần lên Ủy ban Chính trị và Pháp luật tỉnh, lại đâm đơn lên Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật, yêu cầu phải xử lý thật nghiêm, cuối cùng bố vợ tôi bị kết án mấy năm. Sau lần đó, bố vợ tôi đã hoàn toàn cạch mặt Hoàng Yến, đuổi cô ấy ra khỏi nhà, nói chỉ cần ông ấy còn sống, thì Hoàng Yến không được phép về nhà. Chuyện đại khái là như thế, nhiều hơn thì tôi cũng không biết.” Hứa Văn Hữu tuy mặt mũi xấu xí, được cái mồm mép lanh lợi, kể về Hoàng Tứ Hải một câu “bố vợ” hai câu “bố vợ”, có vẻ rất tự hào về ông ta.

Thẩm Thư không truy hỏi về mâu thuẫn giữa Hoàng Tứ Hải và con gái nữa, bảo: “Cậu đã từng phạm tội ở Biên Thành, bị bắt giữ vì tội trộm chó có đúng không?” Biên Thành là một huyện nằm ở phía Đông Nam thành phố Sở Nguyên.

Hứa Văn Hữu không ngờ lại có chút xấu hổ, mặt đỏ bừng, cười trừ một cách khó xử: “Đều tại tôi bị ma xui quỷ khiến, bị người khác lừa, làm điều sai trái, chính quyền đã phê bình giáo dục tôi gay gắt rồi.”

Tôi không hề quan tâm đến sự hối hận của cậu ta, nói: “Kể cho chúng tôi nghe về thủ đoạn trộm chó của các cậu đi.”

Hứa Văn Hữu ấp a ấp úng đáp: “Cái này…… Tôi đã rửa tay gác kiếm rồi, mới chỉ làm có hai ba lần thôi.”

Thẩm Thư xoa dịu cảm xúc của cậu ta: “Không sao, cậu đã bị bắt giữ rồi, giờ sẽ không truy cứu hành vi phạm pháp của cậu nữa, tôi chỉ muốn nghe về thủ đoạn bắt chó của các cậu thôi.”

Hứa Văn Hữu vo tay đáp: “Kể ra thì cũng đơn giản, bình thường chúng tôi chỉ trộm chó trên đường hoặc được nuôi trong sân nhà người ta, chúng tôi chế một bộ cung, mũi tên được tẩm [Ba bước gục], nhắm chuẩn lên thân chó mà bắn, con chó sẽ tru lên hai tiếng rồi gục, rồi chúng tôi xách đùi nó ném lên xe. Hôm nào may mắn, một ngày chúng tôi có thể bắt được 8 – 10 con.”

Thẩm Thư truy hỏi: “[Ba bước gục] là gì?”

Hứa Văn Hữu đáp: “Là một loại thuốc cực mạnh để làm tê liệt chó, rất dễ dùng, đến người cũng có thể bị gây tê, mua nửa cân chỉ có ba bốn trăm tệ, được bán ở Lão Oa Bảo Tử.” Lão Oa Bảo Tử là chợ đầu mối sản phẩm ngông nghiệp và phụ phẩm lớn nhất thành phố Sở Nguyên.

Tôi nói xen vào: “Tên khoa học có phải là Succinylcholine không?”

Mặt Hứa Văn Hữu trở nên ngơ ngác: “Succi…… gì cơ? Chưa từng nghe qua nên không dám nói bừa, dân trong ngành gọi nó là [Ba bước gục].” Hứa Văn Hữu không biết tên khoa học của loại thuốc tê này, nhưng dân trong ngành chúng tôi cơ bản có thể xác định nó chính là Succinylcholine, vũ khí bí mật của bọn trộm chó.

Thẩm Thư bị cậu ta làm cho phì cười: “Cái gì mà dân trong ngành các cậu? Té ra việc các cậu trộm gà bắt chó lại trở thành một nghề đàng hoàng à? Cậu nói [Ba bước gục] có thể dùng để gây tê người, các cậu đã từng thử lên người ai chưa?”

Hứa Văn Hữu lộ ra nét mặt kinh hãi, hai tay xua lia lịa: “Tôi không dám nói bậy, gan tôi bé lắm, đánh bả chó thì còn được, chứ người thì sao dám, thế khác nào Tôn Nhị Nương?”

Thẩm Thư đưa cho cậu ta một cốc nước: “Đừng lo lắng, uống miếng nước cho bon miệng.” Được quan tâm bất ngờ, Hứa Văn Hữu rón rén dùng hai tay đón lấy, tay phải run rẩy cầm cốc nước đưa lên mồm, nhấp miệng một cách vô cùng nho nhã.

Tôi hỏi: “Cậu biết tiêm không?” Hứa Văn Hữu chưa kịp phản ứng lại: “Sao cơ?” Tôi nhắc lại lần nữa: “Tiêm, giống bác sĩ tiêm lên người cậu ấy.” Hứa Văn Hữu nguây nguẩy đầu như cái trống lắc: “Không, không, tôi không biết.”

Tôi đưa ống tiêm chứa thuốc cho cậu ta, chỉ lên mô người giả ra hiệu cho cậu ta tiêm lên đó một mũi. Hứa Văn Hữu tuy không hiểu chuyện gì, nhưng lại có một nỗi kính sợ bẩm sinh đối với yêu cầu của cảnh sát, ngoan ngoãn dùng tay phải cầm kim tiêm lên, đâm vào mô người giả. Tay cậu ta run lẩy bẩy, đâm chệch, làm mũi tiêm xuyên qua lớp biểu bì. Ngón tay cậu ta đồng thời ấn vào xi-lanh, thuốc phụt ra ngoài, bắn lên người cậu ta.

Tôi vội động viên: “Không phải căng thẳng, thuốc trong ống tiêm là nước muối sinh lý thôi, không gây hại gì đâu.”

Hứa Văn Hữu sợ hãi hỏi: “Hay là tiêm lại lần nữa?”

Thẩm Thư nói: “Thế này đi. Cậu hãy nhớ lại, tối hôm Hoàng Tứ Hải qua đời, cậu có nghe thấy trong phòng có động tĩnh gì không, hoặc có nhìn thấy điều gì đặc biệt không?”

Hứa Văn Hữu đảo mắt đáp: “Không có, bố vợ tôi về nhà không lâu là chúng tôi ai về phòng nấy ngủ. Tôi còn ngồi xem ti-vi một lúc, tầm hơn 12 giờ đêm mới đi ngủ, không bị tỉnh giấc giữa chừng, sáng hôm sau dậy đi vệ sinh thì nghe thấy tiếng mẹ vợ gào khóc, mới biết là bố vợ xảy ra chuyện rồi.”

Thẩm Thư nhìn chằm chằm vào biểu cảm biến hóa của cậu ta, dường như đang suy nghĩ điều gì, độ mấy giây sau mới bảo: “Được rồi, cậu ra ngoài đi, trước khi chúng tôi thông báo thì cậu hãy ở nguyên phòng mình, không được rời khỏi căn nhà này.”

Đây là lần thứ hai chúng tôi đối thoại với Hoàng Oanh.

Cô ấy để lại cho chúng tôi ấn tượng về một người phụ nữ hào hiệp, lão luyện, có thể làm nên việc lớn.

Hoàng Oanh điều hành một công ty trách nhiệm hữu hạn công nghệ sinh học, sản xuất tiêu thụ một loại thực phẩm chức năng chống lão hóa. Tôi trước đó chưa từng nghe nói về thương hiệu thực phẩm chức năng của cô ta, nhưng thị trường thực phẩm chức năng hiện tại rất hỗn loạn, chất lượng sản phẩm không đồng đều, phần lớn để lại ấn tượng lừa đảo trong tôi, dường như đa số những người hành nghề đều muốn kiếm một vố lớn xong chuồn, không có kế hoạch phát triển doanh nghiệp bền vững.

Tôi pha một cốc nước chanh đặt trước mặt cô ấy, nói: “Tối qua tôi thấy cô uống nước chanh.” Hoàng Oanh cười với tôi, nụ cười có chút miễn cưỡng, mang theo sự mệt mỏi không thể giấu diếm. Mấy ngày nay trong nhà lắm việc, hẳn cô ấy vẫn chưa được nghỉ ngơi tử tế.

Thẩm Thư thấy cô ấy dùng tay phải nhấc cốc nước lên uống một ngụm lớn xong, mới nói: “Chúng ta không vòng vo nữa, nói thẳng vào vụ án đi. Tối hôm bố cô mất, cô có nghe thấy động tĩnh gì không? Ví dụ như ban đêm có ai đi vệ sinh, hoặc đi lại trong phòng chả hạn?”

Hoàng Oanh trả lời không chút do dự: “Mấy ngày nay các anh cứ kiên quyết cho rằng cái chết của bố tôi có điểm đáng ngờ, tôi đã nghĩ đi nghĩ lại trong đầu những chi tiết ngày hôm đó rồi, nhưng không thấy có vấn đề gì cả. Tối hôm đó tôi ngủ không ngon, lại nghĩ đến bố, hơn 1 giờ sáng có thức dậy một lần, thấy cửa phòng ông ấy đóng, nên không vào làm phiền. Hứa Văn Hữu ngủ ở tầng dưới, hình như là xem ti-vi, căn nhà này cách âm rất tốt, dù chỗ cậu ấy có mở ti-vi lên to nhất thì phòng bên cạnh cũng không nghe thấy gì. Hình như là hơn 2 giờ đêm, tôi cảm giác bên ngoài có người đi lại, bước chân rất khẽ, chắc là mẹ tôi, bà ấy có thói quen tỉnh giấc giữa chừng, hầu như đêm nào cũng thức dậy một hai lần. Tôi chỉ nhớ được vậy, đến giờ tôi vẫn tin rằng bố mình qua đời vì bệnh, các anh đa nghi rồi.”

Tôi nhân lúc cuộc nói chuyện giữa hai người ngắt quãng liền đưa một cây kim tiêm cho Hoàng Oanh, nói: “Cô hãy tiêm lên đây một mũi đi.” Tôi chỉ tay lên mô người giả trên bàn uống nước.

Hoàng Oanh ngơ ngác, hỏi: “Thế là ý gì? Tôi không biết tiêm.”

Tôi đáp: “Không quan trọng, cứ tiêm đại một mũi đi, chúng tôi chỉ đang làm cho đúng thủ tục thôi.”

Hoàng Oanh nhìn tôi, lại quay sang nhìn Thẩm Thư, do dự dùng tay phải cầm kim tiêm lên, nhẹ nhàng đâm lên lớp biểu bì của mô người giả, ngón cái đẩy ống xi-lanh, động tác tỏ ra vụng về.

Tôi nói: “Được rồi, làm cho có thôi.” Hoàng Oanh nghe vậy liền buông tay, sắc mặt có chút nhợt nhạt. Cô ấy không nói gì, mũi tiêm vẫn lưu lại trên bề mặt cao su mềm oặt ấy, đung đa đung đưa.

Thẩm Thư tiếp tục hỏi: “Công việc kinh doanh thực phẩm chức năng của cô, với việc kinh doanh của bố cô có liên quan gì tới nhau không? Tính cả việc nhập hàng, xuất hàng, vận chuyển hàng, vốn lưu động, vv…”

Hoàng Oanh trả lời một cách kiên quyết: “Không có, bản chất và khái niệm kinh doanh của hai công ty chúng tôi hoàn toàn khác nhau. Trên thực tế, tôi không biết tí gì về công việc làm ăn của bố mình, tôi cũng chưa từng nhờ ông ấy hỗ trợ về mặt tài chính. Hiện tại công ty chúng tôi đang đi đúng hướng và có đà lợi nhuận rất tốt, năm ngoái còn được bình chọn là 1 trong 50 công ty triển vọng nhất thành phố, càng không cần thiết phải bắt tay với công ty của ông ấy, dù gì…… uy tín của ông ấy trong xã hội…… gièm pha nhiều hơn cả danh tiếng.” Câu nói này của Hoàng Oanh đã chừa lại chỗ cho bố cô ấy rồi. Biệt danh trong xã hội của Hoàng Tứ Hải là Hoàng Lão Ngũ, hàng nghìn người dân đã bị ông ta ức hiếp, ai nhắc tới ông ta cũng chửi bới thậm tệ sau lưng.

Thẩm Thư khẽ gật đầu, dường như tỏ ý tán đồng với nguyên tắc làm việc của Hoàng Oanh, lại hỏi: “Theo tư liệu mà chúng tôi nắm được, cô đã kết hôn được 10 năm, tại sao trong nhà xảy ra chuyện lớn thế mà chồng cô lại không xuất hiện?”

Hoàng Oanh chán nản đáp: “Chồng tôi giống các anh, cũng công tác trong hệ thống tư pháp. Lần phạm tội trước của bố tôi đã liên lụy đến anh ấy, có kẻ nhân cơ hội để tố cáo nặc danh, muốn đạp ngã anh ấy, tuy cuối cùng không lập án do chưa đủ bằng chứng, nhưng dù gì cũng đã ảnh hưởng tới anh ấy, từ đó về sau anh ấy không qua lại với gia đình nhà tôi nữa.”

Tôi thở dài trong lòng, nghĩ bụng nhà này tuy giàu có về mặt tài chính, nhưng quan hệ gia đình lại rối rắm phức tạp, yêu ghét lẫn lộn.

Thẩm Thư không truy hỏi về hoàn cảnh chồng cô ta nữa, bảo: “Bố cô phát tài gần 20 năm nay, gia cơ đồ sộ, ông ấy lại mắc bệnh tim, khi còn sống chưa từng nghĩ đến việc lập di chúc sao?”

Hoàng Oanh lắc đầu đáp: “Lần trước khi đi tù ông ấy có đề cập một lần, người trong nhà đều không đồng tình, cho rằng như vậy là không cát lợi, nên đã gác chuyện đó lại. Ai mà ngờ ông ấy lại……” Hoàng Oanh nói đến đây, giọng nói nghẹn ngào trong cổ họng, nước mắt giàn giụa.

Thẩm Thư thấy cảm xúc cô ta kích động, tạm thời cũng chưa có câu hỏi nào khác, bèn để cô ta về phòng nghỉ ngơi, đồng thời dặn dò cô ấy khi chưa được cảnh sát thông báo, không được phép rời khỏi đây.

Sau khi nói chuyện với ba nghi phạm, mối nghi ngờ trong lòng tôi vẫn chưa được gỡ bỏ, mà lại càng vướng bận hơn. Nói thật, dựa vào cảm giác đầu tiên, tôi đã nghi ngờ Hứa Văn Hữu là đối tượng gây án, bởi bộ dạng của hắn ta trông rất hèn hạ, lại còn làm mấy chuyện bắt chó trộm gà, có động cơ gây án, cũng có cơ hội lấy được Succinylcholine, gần như phù hợp với toàn bộ điều kiện của nghi phạm. Nhưng sau khi nói chuyện riêng với từng nghi phạm, sự đáng ngờ của Lâm Mai Đình cũng lộ ra, trong bối cảnh chưa có bằng chứng xác thực, chỉ dựa vào suy đoán thì không thể xác định được hung thủ.

[Còn tiếp]

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *