Bạn đã từng nghe kể về “người dẫn xác” (hay còn gọi là “người cản thi”) Tương Tây (châu tự trị dân tộc Miêu – Thổ Gia, nằm ở phía tây tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc) chưa?
Trong tác phẩm “Cương Thi Tiên Sinh”, có một người mặc đạo bào (áo đạo sĩ), tay cầm chuông nhiếp hồn, vừa đi vừa rải những xấp giấy vàng mã. Phía sau là một hàng dài cương thi, trên đầu họ dán tấm đạo bùa đã được niệm chú, nhảy cà tưng cà tưng, di chuyển theo từng bước chân của đạo sĩ, hướng về nơi vô định.
Cảnh tượng này, đã khắc sâu vào trong tâm trí tôi kể từ khi còn thơ bé.
Và trùng hợp thay, một người bạn của tôi, vừa hay cũng làm nghề dẫn xác như thế.
Anh ấy tên Lương Vĩnh Nguyên, sinh năm 1959 tại thôn Long Hoa, Tương Tây, một thôn xóm nghèo, hoang vu, hẻo lánh và vô cùng lạc hậu.
Cũng bởi gia cảnh nghèo khó, Lương Vĩnh Nguyên chỉ học đến tiểu học, sau đó ít lâu thì bắt đầu đi làm, bôn ba khắp nơi tìm việc.
Vào chính lúc này, mẹ anh đã giao anh cho một người làm nghề dẫn xác, theo họ học việc.
Dẫn xác là một phong tục vô cùng độc đáo của Tương Tây, ở thời điểm đó, nó được coi là một nghề cực kỳ cao siêu.
Tuy rằng Lương Vĩnh Nguyên không mấy hứng thú, nhưng sau khi đắn đo suy nghĩ một hồi, anh vẫn quyết định nghe theo lời mẹ.
Tương truyền trong dân gian, nghề dẫn xác đã xuất hiện ở Tương Tây từ thời xa xưa.
Những người theo học nghề này, phải đáp ứng đủ 2 điều kiện:
Thứ nhất, phải gan dạ.
Thứ hai, phải có sức khoẻ tốt.
Hơn nữa, người muốn theo nghề dẫn xác, nhất định phải bái thầy. Nhưng những người “thầy” này cũng sẽ không tùy tiện mà nhận bừa một người học trò bất kì.
Trước tiên, người già trong nhà sẽ cung cấp thông tin của con cháu muốn theo nghề, sau đó đưa đến chỗ người dẫn xác để hai bên gặp mặt, hỏi chuyện. Thông thường, phải đủ 16 tuổi, cao trên 1m7, đồng thời còn có một điều kiện vô cùng đặc biệt, đó là, ngoại hình phải xấu xí một chút mới dễ được nhắm trúng!
Lương Vĩnh Nguyên vừa hay lại đáp ứng tất cả các điều kiện trên, do đó đã được thầy Thôi Kiến Viễn nhận ngay chỉ sau một ánh nhìn.
Thôi Kiến Viễn lúc ấy đã hơn 50 tuổi, nhưng vẫn còn khá cường tráng, chỉ là cả đời không có lấy một mụn con, nên muốn tìm vài người học trò phụng dưỡng khi về già.
Lương Vĩnh Nguyên tính tình ngay thẳng, đàng hoàng, điểm này khiến ông vô cùng hài lòng.
Khi đó, ngoài Lương Vĩnh Nguyên, cùng nhận Thôi Kiến Viễn làm thầy còn có 3 người nữa.
Muốn trở thành người dẫn xác, họ nhất định phải vượt qua 3 cửa ải.
Cửa ải thứ nhất, Thôi Kiến Viễn bảo họ nhìn thẳng vào mặt trời, sau đó xoay thành vòng tròn nhiều lần, rồi đột ngột kêu dừng lại, yêu cầu họ lập tức phân biệt các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Nếu không phân biệt được, sẽ bị đuổi về, bởi, điều này chứng tỏ rằng, họ không nhạy bén về phương hướng, mà nghề dẫn xác chỉ hoạt động lúc đêm khuya, người nào mù mờ về phương hướng thì tốt nhất nên từ bỏ.
Cửa ải thứ hai, Thôi Kiến Viễn yêu cầu họ khuân vật nặng, vác đòn gánh. Bởi vì thi thể tất nhiên không thể linh hoạt như người sống, khi gặp phải sườn dốc, thi thể không thể tự mình leo lên được, do đó người dẫn xác cần phải cõng hoặc vác từng thi thể lên một.
Hai cửa ải trên đối với một số người mà nói, vẫn còn khá đơn giản, vậy nên, mấu chốt nằm ở cửa ải cuối cùng!
Thôi Kiến Viễn đặt một chiếc lá cây ngô đồng lên trên một ngôi mộ trong núi sâu, đợi đến lúc đêm tối bảo họ đi lấy về. Chỉ làm như vậy, mới có thể chứng minh người này đủ gan dạ, xứng đáng đảm nhận trọng trách của một người dẫn xác hay không.
Quả nhiên, trong ba người họ, có người đi được nửa đường, vì quá sợ hãi mà bỏ về giữa chừng, cũng có người sợ đến nỗi chết trân tại chỗ, không dám đi tiếp.
Chỉ có mình Lương Vĩnh Nguyên đến được ngôi mộ trên núi đó, tuy trong lòng cũng sợ hãi không kém hai người kia, nhưng anh ấy vẫn cắn răng chịu đựng và đem được chiếc lá về.
Vậy là từ đó, Lương Vĩnh Nguyên đã trở thành người học trò duy nhất của Thôi Kiến Viễn, bắt đầu chuỗi ngày theo ông học dẫn xác.
Việc đầu tiên Thôi Kiến Viễn dạy Lương Vĩnh Nguyên chính là vẽ bùa. Ông dùng bút mực đỏ vẽ thứ gì đó vừa giống chữ, lại tựa như tranh lên một tờ giấy màu vàng. Và dặn dò, trên đường đi, nếu gặp phải tình huống bất ngờ, phải lập tức dán tấm bùa đặc biệt này lên cây hoặc cửa nhà ở hướng Tây.
Ngoài ra, Lương Vĩnh Nguyên còn phải học đủ 36 loại chiêu thức, mới có thể đi dẫn xác.
Loại thứ nhất gọi là “Trạm lập công”, phép dựng xác chết đứng thẳng.
Thứ hai là “Hành tẩu công”, phép sai khiến thi thể đi lại theo ý muốn của mình. Chiêu thức thứ 3 là “Chuyển loan công”, có thể khiến thi thể rẽ trái, quẹo phải. Ngoài ra còn có “Hạ pha công”, “Qua kiều công”, “Ách cẩu công”,…
Sau nửa năm học tập và rèn luyện, chẳng mấy chốc Lương Vĩnh Nguyên đã nắm được những ngón nghề thầy dạy, còn có thể cùng ông đi dẫn xác.
Cuộc sống của người hành nghề này, thực ra không khác với những người nông dân bình thường là bao, nửa ngày làm việc, nửa ngày nghỉ ngơi. Chỉ khi nào có người thuê dẫn xác, họ mới hóa trang và chuẩn bị đồ nghề để lên đường.
Tất nhiên cũng có những kiêng kị nhất định trong lúc làm việc, đặc biệt là kiêng nói từ “dẫn xác” mà thay bằng cách nói: “Mời thầy đi dạo ạ” hoặc “Đi dạo một vòng”. Nếu người dẫn xác nhận mối này, họ sẽ chìa ra một tờ giấy màu vàng đặc biệt, để bạn ghi thông tin của người chết như họ tên, ngày tháng năm sinh, năm mất, giới tính,… sau đó vẽ một lá bùa, dán lên tờ giấy vàng, cuối cùng cất nó vào trong người.
Trang phục của người dẫn xác cũng vô cùng đặc biệt, bất kể thời tiết ra sao, họ vẫn sẽ đi giày rơm, choàng bộ trường sam vải bố màu xanh sẫm, eo thắt đai lưng tối màu, đầu đội mũ vải sậm, ngang hông đeo một túi bùa.
Ngày mùng 8 tháng 5 năm 1980.
Lưỡng Vĩnh Nguyên thay đồ xong xuôi, cùng thầy lên đường ra khỏi thôn.
Thầy nói với anh, thôn ta có một người phụ nữ được gả đi đã lâu, nay bỗng nhiên đột tử, nên người ta nhờ hai người đến “đi dạo”.
Lương Vĩnh Nguyên không mấy quan tâm đến lý do, chỉ cần kiếm được tiền là được.
Vậy là ngày hôm sau, họ trèo đèo lội suối, qua hơn 40 dặm đường núi mới đến được thôn Mã Gia.
Tại đây, họ trông thấy một cỗ thi thể của nữ giới.
Trên cổ thi thể này có một vết thương dài, lưỡi đang lè ra, trông khá đáng sợ.
Lần đầu đi dẫn xác, nhìn thấy cảnh tượng này, Lương Vĩnh Nguyên không khỏi kinh hãi. Còn thầy anh thì ngược lại, vô cùng lãnh đạm, sau khi nhìn qua thi thể một lượt, ông quay sang hỏi người chồng đứng cạnh: “Tự sát à?”
“Vâng, tôi chỉ đánh cô ấy có mấy cái, nào có ngờ, lại đến nước treo cổ tự vẫn!” Gương mặt người chồng toát lên vẻ đau khổ.
“Vậy e là dẫn không nổi đâu.” Thầy lắc đầu nói.
“Tại sao?” Người chồng kinh ngạc hỏi.
Thầy cũng không buồn để ý anh ta, quan sát thi thể người phụ nữ một lúc, rồi đáp: “Muốn tôi dẫn đi cũng được, nhưng phải thêm tiền.”
Người chồng bất lực, chỉ đành đồng ý với yêu cầu này của thầy.
Lúc này thầy mới bắt đầu chuẩn bị đồ đạc, dán tấm bùa chú và rải gạo nếp lên trên cái xác. Sau đó đội vào đầu thi thể một cái nón lá.
Lúc này, thi thể người phụ nữ càng trở nên đáng sợ bội phần, người ngoài tuyệt đối không dám lại gần.
Sau đó thầy cùng Lương Vĩnh Nguyên rời đi.
Cõng thi thể người phụ nữ trên lưng, anh ta không nhịn được mà hỏi: “Thưa thầy, tại sao lại nhận vụ này ạ?”
Lý do anh thắc mắc cũng dễ hiểu, bởi nghề dẫn xác tồn tại nguyên tắc “ba dẫn” và “ba không dẫn”.
Trong đó, “ba dẫn” ý chỉ đối tượng có thể dẫn xác bao gồm những thi thể chết do bị chặt đầu, chịu hình phạt treo cổ và chết đứng trong lồng giam. Những người này đều bị ép chết, không cam lòng chết, chết vẫn khao khát được quay về chốn cố hương. Nhiệm vụ của thầy dẫn xác là dùng pháp thuật để câu hồn phách những người này, sau đó dán bùa để trấn áp thi thể, dẫn họ trèo đèo vượt núi, thậm chí lên thuyền vượt sông để trở về quê hương.
Ngược lại, “ba không dẫn” bao gồm những người chết vì bệnh tật, chết do nhảy sông, treo cổ và những người bị sét đánh, lửa thiêu, các chi không còn nguyên vẹn.
Hồn phách của những người chết vì bệnh tật đều đã bị Diêm Vương dẫn đi, pháp thuật cao siêu đến mấy cũng không thể gọi hồn phách từ Quỷ Môn Quan quay ngược trở lại được.
Với những người nhảy sông, treo cổ, hồn phách họ đã bị kéo đi làm “vật thay thế”, hơn nữa có thể đang thực hiện giai đoạn “chuyển giao” sang kiếp mới, nếu tách hồn phách mới gọi về xác cũ, thế chẳng phải sẽ ảnh hưởng đến việc đầu thai của hồn cũ hay sao.
Còn những người bị sét đánh, lửa thiêu đều là mang phải nghiệp chướng nặng nề, da thịt không lành lặn, cũng không thể nào dẫn nổi.
“Không phải bình thường thầy rất coi trọng quy tắc hay sao, cớ sao lần này lại phá lệ?”
Thầy nở nụ cười thần bí, giải thích: “Theo kinh nghiệm của ta, người phụ nữ này chắc chắn không phải tự sát, rõ ràng là bị người ta thắt cổ đến chết. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy từ vết thương trên người cô ấy. Vậy nên, trước tiên chúng ta nên đến đồn cảnh sát một chuyến đã.”
Họ đưa thi thể người phụ nữ đến thẳng đồn cảnh sát, dọa cho ai nấy đều phát khiếp.
Chẳng mấy chốc sau đó, cảnh sát đã điều tra ra chân tướng vụ việc.
Người phụ nữ này quả nhiên bị người ta siết cổ mà chết.
Thì ra, bởi vì cô ấy không sinh được con, nhưng lại một mức không muốn ly hôn. Vậy nên, để nối dõi tông đường, chồng cô đã nhẫn tâm ra tay giết chết người đầu ấp tay gối của mình, thậm chí còn chuẩn bị cưới vợ mới.
Chỉ tiếc rằng, tất cả những điều này đều đã bị Thôi Kiến Viễn phát hiện.
Cảnh sát hết lời khen ngợi trước sự tinh tường của Thôi Kiến Viễn, nhưng ông lại không mảy may để ý, nói: “Đều là do tổ tiên truyền lại cả, có gì to tát đâu.”
Bị giày vò hơn nửa tháng trời, thi thể của người phụ nữ vẫn chưa được an táng.
Theo như tâm nguyện của người nhà nạn nhân, đợi đến khi sự việc kết thúc, Thôi Kiến Viễn vẫn sẽ cùng Lương Vĩnh Nguyên dẫn xác cô ấy trở về quê nhà.
Thi thể người phụ nữ đầu đội nón lá, khoác trên mình một chiếc áo choàng màu trắng, cứ như vậy mà đi theo Thôi Kiến Viễn.
Ba người họ, ban đêm lên đường, ban ngày dừng chân hồi sức.
Nửa đêm, núi rừng hoang vu, tĩnh mịch, chim kêu vượn hú rất đáng sợ.
Ánh trăng xuyên qua từng lớp mây mù, chiếu những tia sáng ảm đạm xuống mặt đất. Trên mặt đường nhấp nhô, có một nhóm người nối đuôi nhau, chầm chậm di chuyển. Nhìn kỹ sẽ thấy, đi đầu là một người đàn ông lớn tuổi, khoác một bộ trường sam màu xanh sẫm, tay trái cầm một đôi chuông đồng buộc dây đỏ, tay phải vẫy cờ đuôi nheo màu vàng quả hạnh.
Lặng lẽ theo sau người đàn ông là một người phụ nữ cử chỉ kỳ quái, nhất cử nhất động của cô ấy đều lặp đi lặp lại một vòng tuần hoàn, trông rất dị thường, không hề thay đổi, trông dáng vẻ giống người, nhưng lại tựa như con rối.
Người phụ nữ duỗi thẳng hai tay về phía trước, nhảy tưng tưng như một ả cương thi.
Dáng vẻ đi lại của cô ta cũng không giống người thường. Mỗi bước đều giậm chân một cách cứng nhắc, không nhẹ nhàng, linh hoạt như cách chúng ta đi lại.
Nhưng, điều khiến người ta sửng sốt hơn cả, chính là gương mặt của người phụ nữ này! Trong sắc mặt trắng bệch, tái nhợt, phảng phất màu xám đen xen lẫn xanh thẫm kia, còn điểm vài vết lốm đốm đỏ sẫm, hốc mắt sâu hoắm đến nỗi không thấy được con ngươi, tưởng như đã bị bóng tối bủa vây. Trên mặt dán một tờ giấy màu vàng, hình như còn vẽ bùa bên trên nữa.
Nếu có ai nửa đêm bắt gặp cảnh tượng này, chắc chắn sẽ bị dọa sợ đến mức tim gan phèo phổi lộn hết ra ngoài.
Người đàn ông dẫn đầu chính là Thôi Kiến Viễn.
Còn kẻ lẽo đẽo đi sau người phụ nữ là Lương Vĩnh Nguyên.
Do đây là lần đầu tiên đi dẫn xác, nên Lương Vĩnh Nguyên cảm thấy vô cùng căng thẳng.
Nhưng anh cũng rất nhanh lấy lại bình tĩnh, cắm cúi, lặng lẽ đi theo.
Đường núi gập ghềnh, không biết đã đi được bao xa, chỉ thấy trời đã dần trở sáng.
Vào lúc này, trước mặt bọn họ xuất hiện một quán trọ cũ kĩ.
Lương Vĩnh Nguyên liền hoảng sợ, tự hỏi nơi rừng núi hoang vu như thế này, cớ sao lại có quán trọ được cơ chứ?!
Mặc cho vẻ bề ngoài cũ nát, cánh cửa lớn lúc nào cũng để mở, giống như đang gọi mời bọn họ vào trong vậy.
Thấy thế, Lương Vĩnh Nguyên không dám lê bước tiếp nữa.
Thế nhưng, thầy Thôi Kiến Viễn lại trừng mắt, mắng: “Sợ cái gì mà sợ? Thường ngày ta dạy con thế nào? Vẫn chưa nhớ ra sao? Đây là quán trọ người chết!”
Lương Vĩnh Nguyên bỗng chốc ngộ ra, trợn mắt kinh ngạc, quan sát căn nhà tồi tàn trước mặt.
Anh đã được nghe thầy kể về nơi này từ rất lâu về trước, nhưng đây lại là lần đầu tiên được tận mắt chứng kiến.
Thôi Kiến Viễn dừng lại, bước vào bên trong.
Ngay sau đó, một ông lão bước ra, vốn là chỗ quen biết lâu năm, ông không hỏi gì nhiều, nhanh nhảu dẫn họ vào trong.
Lương Vĩnh Nguyên lẽo đẽo phía sau, cõng theo thi thể người phụ nữ, lúng ta lúng túng đi theo.
Thôi Kiến Viễn thấy vậy, mắng anh kém cỏi, sau đó tự mình vác thi thể đặt ở phía sau cánh cửa, để nó đứng đấy với ánh mắt thẫn thờ hướng về phía trước.
Ông chủ quán trọ tuyệt nhiên không mảy may sợ hãi trước cảnh tượng quái dị này, chỉ dặn dò thầy trò mấy câu rồi trở về phòng nghỉ.
Đến tận lúc này, Lương Vĩnh Nguyên mới bước vào bên trong quán trọ xác chết.
Bên trong bao trùm bởi một màu đen huyền bí, vô cùng tối tăm và u ám.
Họ vội vàng lấy mấy cái bánh trong túi ra, sau đó uống kèm với nước lạnh.
“Thưa thầy, thi thể để phía sau cửa lớn, sẽ không bị hư hỏng gì chứ ạ?”
“Không sao, đó là nơi chuyên để xác chết.” Thầy hờ hững nói.
Sau này, Lương Vĩnh Nguyên mới biết, thì ra “Quán trọ xác chết” huyền bí này thường hay mở ở nơi rừng núi hoang vu, và đặc biệt, không dành cho người sống, chỉ có xác chết và người dẫn xác mới có thể đến ở.
Cửa lớn của nơi này luôn luôn để mở như vậy bởi phía sau hai cánh cửa ấy chính là nơi nghỉ ngơi của thi thể. Trước khi trời sáng, thầy dẫn xác sẽ đến “Quán trọ xác chết” nghỉ ngơi, đợi đến khi bóng tối bao trùm không gian mới lại lẳng lặng rời đi. Mỗi khi đến đây, thi thể đều sẽ dựa vào tường, đứng ngay ngắn phía sau cánh cửa như vậy.
Nếu gặp phải trời mưa, không thể đi tiếp, bọn họ sẽ ở lại quán trọ này vài ngày vài đêm, kể cả như thế thì thi thể vẫn sẽ đứng sau cánh cửa, không chút chuyển động.
Đặc biệt, cánh cửa của quán trọ, ngoài người dẫn xác, không một ai được phép đụng vào. Do mang tâm lý đầy kinh hãi khi nghe tới hai từ xác chết, vậy nên đằng sau cánh cửa này vô hình trở thành nơi cấm kị thần bí và đáng sợ. Ngay cả người của quán trọ cũng không ai dám đến gần hay ngó ngàng lung tung, kể cả khi họ biết trong đó không có thi thể.
Quán trọ xác chết và người dẫn xác có mối quan hệ mật thiết, gắn liền và hỗ trợ cho nhau, chính bởi lẽ đó, “dẫn xác” đã trở thành một ngành nghề độc đáo ở Tương Tây.
Cho dù những nơi khác có người theo nghề này, nhưng sớm hay muộn cũng phải từ bỏ, bởi quán trọ xác chết chỉ tập trung chủ yếu ở vùng Tương Tây này.
Ban ngày ngủ một giấc, đến đêm tối, hai thầy trò Lương Vĩnh Nguyên lại chuẩn bị đồ đạc, tiếp tục lên đường.
Thế nhưng, tối ấy bỗng mưa lớn, không thể di chuyển nên bọn họ đành tá túc tại đây thêm một ngày nữa.
Đêm khuya, Thôi Kiến Viễn ngồi nhâm nhi ly rượu cùng ông lão quán trọ.
Bấy giờ Lương Vĩnh Nguyên mới biết, ông lão này, chính là bạn cũ của thầy.
“Vẫn làm nghề dẫn xác à?”
“Hết cách rồi, chỉ có chút tài mọn này.”
“Bây giờ người muốn làm nghề này, càng ngày càng ít rồi.”
“Phải đấy. Quán trọ này của ông cũng không mở được bao lâu nữa rồi.”
Hai người họ uống say bí tỉ, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi.
Đêm hôm sau, mắt thấy ngoài đường đã khô ráo, Thôi Kiến Viễn mới cùng Lương Vĩnh Nguyên xuất phát lên đường, tiếp tục dẫn xác.
Cả quãng đường đi vô cùng gian khổ.
Cảnh vật trước mắt cũng âm u, heo hút.
Thôi Kiến Viễn lắc lư chiếc chuông, gấp rút lên đường trong đêm.
Mỗi khi gặp người qua đường, ông lại không ngừng rung lắc chiếc chuông, lớn tiếng hô hào: “Thần phúc đến đây, mau mau tránh đường!”
Từ xa đã thấy không khí u ám dần tiến tới, dân làng vội vàng tránh đi.
Thêm cả một Thôi Kiến Viễn hung tợn, khiến người bên cạnh không dám đến gần.
Ông cầm một cây gậy trong tay, thấy chó liền chạy đến đánh, gặp trẻ con cũng dọa nạt. Không chỉ vậy, mỗi khi đi qua một thôn làng nào đó, ông lại gõ chiêng inh ỏi. Những lúc như thế, nhà nào nhà nấy đều sẽ bảo nhau đóng cửa kín mít, nhốt hết chó mèo trong nhà.
Thấy vậy, Lương Vĩnh Nguyên cực kỳ thắc mắc, cảm thấy người dẫn xác làm ăn đàng hoàng, hà cớ gì phải làm trò giả thần giả quỷ như vậy?!
Đáp lại câu hỏi của anh, thầy giải thích rằng, người ngoài ngành rất hiếm khi gặp cảnh tượng dẫn xác như vậy, thế nên mới phải khua chiêng gõ trống để thông báo cho biết trước mà né. Cũng không phải không muốn cho mọi người thấy, mà là chẳng ai dám chứng kiến cảnh tượng hãi hùng này.
Thầy lại giải thích thêm, sở dĩ người dẫn xác ở những nơi khác ngoài Tương Tây đều rất khó hành nghề. Có ba nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, chỗ ở là một vấn đề nan giải, những nơi khác đều không có quán trọ xác chết.
Thứ hai, người đi đêm thường không biết nghe tiếng chiêng mà tránh, ngược lại còn ùa ra xem, như vậy khó tránh bị dọa cho khiếp hồn bạt vía.
Thứ ba, có rất nhiều thôn làng chỉ có một con đường chính, không có lối đi vòng qua núi hay qua đèo, vậy nên buộc người dẫn xác phải đi con đường duy nhất đó. Thế nhưng, hầu hết các nơi đều không cho những người làm nghề này mang qủy thần vào làng, huống hồ còn là một cái xác sống nhảy nhót.
Hơn nữa thi thể còn rất “sợ” chó. Bởi một khi chó cắn vào quần áo của thi thể rồi kéo, giật, chắc chắn sẽ gây ra những tổn hại nhất định đối với người đã khuất. Một con chó còn dễ xử lý, nhưng nếu chúng kéo cả bầy đến, thì sẽ khiến quần áo, da thịt thi thể nát như tươm. Và, những người dẫn xác tất nhiên cũng sẽ không lọt khỏi nanh vuốt của chúng, thế nên mới phải kêu gọi dân làng nhốt chó mèo lại trong nhà. Nhưng, ở Tương Tây thì nghề này sẽ không gặp phải những khó khăn này.
Do đó, khi nhắc đến người dẫn xác, mọi người đều sẽ lập tức nhớ ngay đến Tương Tây.
Bảy ngày sau, cuối cùng Lương Vĩnh Nguyên cũng trao trả được cái xác đến tay người nhà cô ấy.
Gia đình của thi thể vô cùng biết ơn, cảm ơn rối rít, còn cho họ không ít tiền. Nhưng Thôi Kiến Viễn không lấy nhiều, chỉ nhận phần tiền nên nhận mà thôi.
Sau khi thi thể người phụ nữ được an táng ổn thỏa, Lương Vĩnh Nguyên cũng quay về nhà và làm nông.
Xét theo một khía cạnh nào đó, “dẫn xác” chỉ là một nghề phụ. Bởi không ai biết khi nào mới bất chợt có việc.
Trong khoảng thời gian mấy năm sau đó, Lương Vĩnh Nguyên cũng nhận thêm được vài mối, và dần dần có chút tiếng tăm trong nghề, nhưng lần nào anh cũng song hành cùng thầy.
Khi đó tôi là phóng viên của một tòa soạn nhỏ, thi thoảng có ghé về chốn thôn quê làm bài phỏng vấn, gặp gỡ nhân vật truyền kỳ như Lương Vĩnh Nguyên.
Tôi hỏi anh ấy, tại sao dẫn xác phải cần đến hai người?
Lương Vĩnh Nguyên suy nghĩ một lúc rồi mới trả lời: “Có thể là vì sợ.”
Dẫu sao nơi rừng núi hoang vu hẻo lánh, trong đêm tối âm u, tĩnh mịch, chỉ có một người dẫn xác, khó tránh khỏi cảm thấy kinh hãi.
“Vậy nghề dẫn xác này, thực sự có thể khiến thi thể tự đứng dậy đi lại được ư?”
Lương Vĩnh Nguyên không đáp, chỉ cười thầm một cách thần bí.
Sau đó vài năm, mỗi lần về thăm quê, tôi đều sẽ đến gặp anh ta, thỉnh thoảng hỏi thăm về nghề dẫn xác.
Tôi từng hỏi về lần dẫn xác đáng nhớ nhất. Anh ta trả lời rằng đã từng dẫn một cái xác người sống.
Khi đó tôi rất bất ngờ, xác người sống là sao? Lẽ nào là thi thể vẫn còn sống?
Lúc này, Lương Vĩnh Nguyên mới kể cho tôi nghe chi tiết câu chuyện.
Dù cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ lại, câu chuyện ấy vẫn khiến trái tim tôi không kìm được mà nhói đau.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 1980, Lương Vĩnh Nguyên và thầy của mình cùng đến thôn Nhị Hà dẫn xác.
Theo như lời thầy nói, lần này phải dẫn xác của một bà lão.
Người già, tâm nguyện cuối cùng chính là “lá rụng về cội”, vậy nên người nhà họ mới gọi thầy trò anh đến dẫn xác giúp.
Đến nơi, Thôi Kiến Viễn giật mình bất ngờ với “thi thể” trước mắt. Bà lão này, vẫn chưa chết!
Tuy rằng nhịp thở của rất yếu, nhưng vẫn có thể nhận thấy bà vẫn còn sống.
“Mấy người đang làm cái quái gì thế này?”
Trong căn nhà đất, Thôi Kiến Viễn giậm chân, chỉ vào bà lão đang nằm trên giường, quát um lên: “Tôi làm nghề này mấy chục năm rồi, chưa bao giờ gặp phải ai làm việc thất đức như nhà các người.”
Bà lão ốm yếu, sốt cao, nằm trên giường rên rỉ: “Tôi muốn về nhà, cho tôi về thôn Long Hoa.”
Một ông lão sắc mặt u ám, ngồi trên bậc cửa cách đó không xa, vừa ngậm tẩu hút vừa nói: “Bà già chết tiệt! Về thì càng tốt, tôi đỡ phải tốn tiền.”
Thôi Kiến Viễn hỏi han tình hình mới rõ, thì ra người mời họ đến dẫn xác không phải ai khác, mà chính là bà lão đang hấp hối này.
Bà là người thôn Long Hoa, năm 15 tuổi đã bị bán đến nhà này làm dâu.
Bây giờ, cận lúc gần đất xa trời, bà ước mong được quay về, mai táng tại nơi cha sinh mẹ đẻ.
“Điều này không đúng với quy tắc của chúng tôi! Đầu tiên là việc bà chưa mất, mà cho dù có qua đời, cũng vẫn nên được chôn cất ở đây.” Thôi Kiến Viễn cố giải thích.
Theo như truyền thống, phụ nữ được gả về nơi nào, sẽ chính thức trở thành người ở nơi đấy. Dù có mất đi, cũng phải nằm xuống đất nhà chồng.
Nhưng tại sao bà lại kiên quyết muốn về nhà?
Ông lão hút điếu tẩu, mặt hiện rõ vẻ khó chịu, gào lên: “Bà muốn về thì về đi, tôi không quan tâm!”
Nói xong ông ta đứng phắt dậy, bỏ đi.
Thôi Kiến Viễn không biết phải làm sao, cảm thấy vô cùng khó xử.
Bà lão run rẩy chìa cánh tay ra, với lấy ông: “Bà xin cháu, cho dù thế nào đi nữa cũng phải đưa bà về. Bà có tiền mà, đây là tiền bà dành dụm, tích góp được.”
Bà dùng hết sức bình sinh, rút ra một cái khăn tay giấu kĩ dưới gối, trong đó toàn là tiền lẻ. Chỉ nhìn qua thôi cũng có thể thấy, đây là số tiền bà đã phải khổ sở tích góp nhiều năm mới có được.
Hai thầy trò anh quay ra nhìn nhau rồi nói: “Việc này, cháu phải thương lượng với cụ ông trước đã.” Thôi Kiến Viễn không nỡ từ chối bà lão đáng thương, đành lựa lời để đáp.
Bà lão lắc đầu, cười khổ: “Bọn họ chắc chắn sẽ đồng ý thôi!”
Và quả thật, giống như những gì bà lão nói, sau khi nói chuyện với người mẹ chồng và mấy anh con trai của bà, họ đều đồng ý.
Điều này khiến Thôi Kiến Viễn không khỏi bất ngờ, nhưng ông cũng không nói thêm gì, sau đó nhanh chóng đưa bà lão rời đi.
Dẫn xác chia thành 2 loại, dẫn xác người chết và dẫn xác người sống.
Xác người sống chính là người đang lúc hấp hối, không khác người chết là bao.
Thôi Kiến Viễn tìm một cái xe kéo, cứ như vậy mà đẩy bà lão đi.
Lúc chuẩn bị khởi hành, con trai và chồng bà không hề đến tiễn, dường như coi bà là vật vô hình vậy.
Lòng người bạc bẽo khiến Lương Vĩnh Nguyên không khỏi bực mình.
Bà lão bệnh nặng, sốt cao, vậy nên Thôi Kiến Viễn phá lệ, chọn xuất phát vào ban ngày.
Hai người đẩy bà lão đi giữa đường núi gập ghềnh, xóc nảy. Thế nhưng, nhìn bà lại vui mừng như thể đã trút được hết gánh nặng trong lòng. Tuy rằng phần lớn thời gian bà đều nằm mê mệt, không biết xung quanh xảy ra điều gì, tuy nhiên, chỉ cần là lúc tỉnh táo, bà sẽ ngồi trò chuyện cùng thầy trò anh.
Nhìn bà như vậy, Lương Vĩnh Nguyên cũng bớt lo lắng phần nào.
Lương Vĩnh Nguyên rất thích nói chuyện với bà.
Nhờ những lời tâm sự ngắn ngủi ấy mà họ mới thật sự thấu hiểu hết nỗi tâm tư của người đàn bà nhỏ bé này.
Bà tên Lý Phượng Anh, vào năm 15 tuổi, nhà nghèo đến mức không có cơm mà ăn, bà bị mẹ mình bán cho một gã tên Chu Sơn ế vợ để đổi lấy 50 kg gạo kê.
Khi đó, mặc cho bà quỳ xuống khóc lóc, van xin mẹ đừng bán mình đi. Thế nhưng, mẹ ôm lấy bà, chỉ vào đứa em trai ốm yếu gầy gò như que củi, khiến Lý Phượng Anh cảm thấy mềm lòng.
Hôm xuất giá, bà cưỡi một con lừa thuê, mặc một bộ đồ cưới cũng mới thuê về, vừa đi vừa ngoái đầu nhìn ngắm lại căn nhà thân thương, nơi có mẹ và em trai, nuốt nước mắt vào trong, bà ngậm ngùi gả cho Chu Sơn.
Khoảnh khắc mẹ ôm em trai nhìn theo bóng hình bà khóc lớn, Lý Phượng Anh cũng đổ lệ theo.
Chỉ có tên Chu Sơn là cười tươi như hoa, nom như mới săn được con mồi béo bở.
Lý Phượng Anh khi mới 15, vẫn còn là một đứa trẻ ngây ngô. Khi đó, bà thích cùng em trai lên núi rong chơi, trèo lên cây hòe trước nhà ngắm nhìn xóm làng yêu dấu.
Vào cái tuổi hồn nhiên ngây ngô ấy, Lý Phượng Anh yêu thích tất cả những gì gắn liền với căn nhà của mình.
Nhưng, tất cả đều vỡ vụn.
Ở cái tuổi ham chơi, ham học ấy, bà lại phải về làm vợ của Chu Sơn.
Trời chưa hửng sáng đã phải dậy nấu ăn, chỉ cần chậm một chút, sẽ bị hắn ta la mắng, đánh đập không thương tiếc.
Cuộc sống bất hạnh kéo dài vô tận, dù chỉ là một ngày, bà cũng không thiết sống thêm nữa.
Đã vài lần bà đau khổ, khóc nức nở chạy về nhà, ao ước thoát khỏi cảnh sống không khác trâu bò, nô lệ, nhưng, đã nhận gạo của người ta, giờ đây mẹ bà cũng chẳng còn cách nào khác.
Và lần nào cũng vậy, ngắm thấy ý định tẩu thoát của vợ, Chu Sơn đều hằm hằm chạy đuổi theo, đánh cho một trận tàn bạo rồi lại lôi bà về.
Qua ngần ấy trận đòn, nước mắt Lý Phượng Anh đã cạn khô, nhưng sống thì vẫn phải sống, biết thế nào được.
Ít lâu sau, bà mang thai. Mãi cho đến lúc này, thái độ của Chu Sơn đối với bà mới trở nên dịu lại đôi phần.
Lý Phượng Anh tưởng rằng, cuối cùng, ngày tháng tốt đẹp cũng đến với mình.
Ngờ đâu, đứa con đầu lòng lại là một bé gái, khiến Chu Sơn ngày một khó chịu, trở nên cáu bẳn, thái độ không còn dịu nhẹ như ngày nào nữa.
Nhưng, điều khiến bà đau khổ nhất chính là, hắn ấy vậy mà lại bán con gái cho bọn buôn người.
Lý Phượng Anh đau đớn, khóc lóc thảm thương, đòi đi tìm con gái về, nhưng thế gian rộng lớn như vậy, phận chân yếu tay mềm như bà, biết tìm con ở đâu bây giờ, khác nào mò kim đáy bể không cơ chứ?
Sau cùng, bà đành đầu hàng số phận, không còn ý định trốn chạy, bỏ về nhà mẹ đẻ nữa, mà bắt đầu đối diện với bi kịch và sống cuộc sống của chính mình.
May thay, về sau bà sinh được hai người con trai, Chu Sơn vì thế mà cũng vui vẻ hơn trước.
Nhưng cuộc sống của bà vẫn chẳng tốt đẹp lên chút nào.
Chu Sơn tính tình vốn nóng nảy, lại có thói nghiện rượu, mỗi khi uống say sẽ đánh đập vợ không thương tiếc. Và những trận đòn roi dường như đã trở thành bữa ăn hàng ngày của bà. Lý Phượng Anh thường bị đánh đến bầm tím cả người.
Cuộc sống của bà, thật sự rất tệ.
Lương Vĩnh Nguyên nghe đến đây, không kìm được mà hỏi: “Không phải bà có hai người con trai sao? Tại sao họ lại không lo cho bà?”
Nghe vậy, Lý Phượng Anh bỗng rơi nước mắt, lắc đầu, không nói gì.
Sau này Lương Vĩnh Nguyên mới biết, hai người con trai của bà, đều là loại bất hiếu, chẳng ra gì.
Ngày thường chúng thậm chí còn học theo bố, đánh cả mẹ mình. Lão chồng bà thấy chúng đánh mẹ, không những không tức giận, can ngăn, mà còn tỏ ra vui mừng, khen rằng chúng ra dáng người làm nên chuyện lớn.
Lương Vĩnh Nguyên không khỏi xót xa trước người đàn bà mệnh khổ, đã phải vì gia đình mà chạy ngược chạy xuôi, tần tảo vất vả, để rồi đến cuối cùng, đổi lại chỉ là một kết cục thảm thương như vậy.
Chẳng trách đến lúc cuối đời, thứ bà mong mỏi duy nhất, chính là trốn khỏi căn nhà đầy ác mộng, về lại quê hương yên bình của mình.
Thời gian bà tỉnh táo ngày một ít đi, phần lớn thời gian bà đều lẩm bẩm: “Về nhà, tôi muốn về nhà.”
Quê nhà đã trở thành một loại chấp niệm sâu thẳm chất chứa mãi trong tim bà.
Thôi Kiến Viễn cũng không khỏi đồng cảm, mạnh mẽ đáp lại: “Bà yên tâm, cháu vào Nam ra Bắc bao lâu nay, chưa từng làm sai điều gì. Bà à, cho dù có phải bỏ cái mạng này, cháu cũng nhất định đưa bà về quê!”
Tối đến, họ không ở lại quán trọ dành cho xác chết mà trú tạm trong một quán trọ bình thường.
Nhìn thấy dáng vẻ ốm yếu của bà, ông chủ không vui cho lắm, sợ bà qua đời ở đây sẽ ảnh hưởng đến chuyện làm ăn.
Thôi Kiến Viễn thấy vậy không kìm được mà quát lớn: “Ông có còn lương tâm không? Ông không có mẹ già à?”
Thầy mắng ông chủ một trận, còn kể lại câu chuyện của bà cho ông nghe.
Sau khi nghe xong, ông chủ đổi cho họ một căn phòng tốt hơn, lúc họ rời đi còn nhất quyết không thu tiền.
Thôn Long Hoa cách đây không còn xa nữa nhưng sức khỏe của bà lại ngày một tệ đi.
Thôi Kiến Viễn thậm chí còn không cho Lương Vĩnh Nguyên nói chuyện với bà, sợ bà mất sức rồi “đi” mất.
Thế nhưng bà lại nói rất nhiều, dường như còn xuất hiện ảo giác, một lúc lại tự dưng khóc lớn.
“Mẹ ơi, đừng bán con đi!”
“Đừng đánh tôi!”
“Tôi muốn về nhà!”
“Tôi không còn nợ nhà họ Chu các người cái gì cả, tôi đã dành cả cuộc đời để trả hết rồi!”
“Tôi nhớ cây hòe trước cửa nhà.”
Bà như đang mơ một cơn ác mộng, cơn ác mộng… không thể tỉnh giấc.
Thôi Kiến Viễn thấy vậy, nói: “Lá rụng về cội, người già chính là muốn được quay về quê nhà rồi mới đành lòng ra đi.”
Thôn Long Hoa đã ở trước mặt.
Thôi Kiến Viễn vội vàng hét lên: “Bà ơi, bà dậy mà xem, đến thôn Long Hoa rồi này!”
Lý Phượng Anh vốn đang hấp hối, bỗng gắng gượng mở mắt, ngắm nhìn thôn làng thân thương không xa trước mặt. Hình bóng này, đã mấy chục năm trôi qua, nhưng vẫn không hề đổi thay. Bà muốn nhìn ngắm cho đã, muốn thu hết vạn vật vào tầm mắt, để cất giữ mãi trong trí nhớ của mình.
Bà bật khóc.
“Tôi nhìn thấy rồi, kia là nhà của tôi, cây hòe trước cửa vẫn còn. Tôi về nhà rồi, cuối cùng tôi cũng về đến nhà rồi.”
“Mẹ ơi, em ơi, con nhớ hai người quá.”
Bà khóc, nước mắt giàn giụa, ngã nhoài ra khỏi xe đẩy.
Bà, không còn thở nữa.
Tang lễ của Lý Phượng Anh, được tổ chức 3 ngày sau đó.
Người thân bên ngoại sau khi nghe thấy số tiền phải bỏ ra, trên mặt liền lộ rõ muốn từ chối. Thấy vậy, Thôi Kiến Viễn đành bỏ tiền “dẫn xác” bà đã trả từ trước, cùng với số tiền tích luỹ bấy lâu của bà mới tổ chức xong tang lễ.
Trong buổi tang lễ, con trai và chồng bà cũng không hề xuất hiện.
Mẹ và em trai bà sớm đã qua đời, chỉ là không có ai thèm báo tin.
Chứng kiến gia cảnh khổ đau của người phụ nữ này, tôi trầm mặc hồi lâu, không tin nổi trên đời lại có một gia đình bạc bẽo, mất nhân tính đến vậy.
Họ không chỉ huỷ hoại cả cuộc đời bà, mà cho đến tận khi bà trút hơi thở cuối cùng, cũng chẳng ai đứng ra chịu tang.
Mấy năm sau, Lương Vĩnh Nguyên vẫn kiên trì, cùng thầy làm nghề dẫn xác này, đưa từng “người” xa xứ tìm về quê hương của mình.
Chỉ là, những người dẫn xác như vậy ngày một ít đi.
Thời thế thay đổi, người trong thôn Long Hoa, phần lớn đều đã lên thành phố làm ăn.
Dù cho Lương Vĩnh Nguyên vẫn cố chấp bám nghề, nhưng anh buồn rầu nói với tôi, đã không tìm được ai để kế nghiệp nữa rồi.
Vả lại, sự phát triển của xã hội cũng khiến những người dẫn xác không còn đất làm ăn, nhà tang lễ dần dần thay thế vị trí của họ. Giờ đây, cho dù là vận chuyển thi thể cũng đều dùng xe ô tô, không còn cần đến người dẫn xác nữa.
Lương Vĩnh Nguyên kết hôn, cưới vợ, rồi sinh con.
Tôi từng hỏi anh ta có chịu để con trai mình theo cái nghề này không?
Lương Vĩnh Nguyên hút thuốc, nghĩ ngợi hồi lâu, lẩm bẩm: “Thôi, không làm thì hơn, dù gì nghề này cũng sắp biến mất rồi.”
Người dẫn xác từng là nghề đặc trưng ở Tương Tây, để lại vô vàn truyền thuyết bí ẩn trong nhân gian.
Vậy mà giờ đây đã dần trở thành đống tro bụi chìm sâu trong dòng chảy lịch sử.
Cái thời chỉ cần nghe thấy tiếng chuông đồng vang lên, nhà nào nhà nấy liền đóng chặt cửa đã qua từ lâu.
Về sau, Lương Vĩnh Nguyên vẫn nhận được mấy việc “dẫn xác”.
Chỉ là, anh đã không cần phải cõng thi thể sau lưng nữa, thứ anh vận chuyển bây giờ là hũ đựng tro cốt.
Những người mất ở xa quê, thường sẽ được hoả táng trong ngày, và Lương Vĩnh Nguyên chính là người vận chuyển, mang những hũ tro cốt đó trả về với gia quyến.
Nghề dẫn xác, thật sự đã sắp hoá cát bụi bay theo cơn gió thời gian rồi.
Mặc vậy, Lương Vĩnh Nguyên vẫn rất lạc quan, nói rằng: “Giờ thì khỏe rồi, không cần phải dẫn xác nữa rồi!”
Nhưng cách đây không lâu xảy ra một chuyện khiến anh không khỏi buồn lòng. “Quán trọ xác chết” đã đóng cửa rồi. Ông chủ ở đó lại ra đi trong chính chỗ làm ăn của mình. Là người chủ cuối cùng ở đó, ông đã kiên trì quán trọ đến tận giây phút cuối đời.
Lương Vĩnh Nguyên cùng thầy đích thân tới đó, “dẫn” ông chủ quán trọ về nhà.
Trên cả chặng đường, thầy anh lắc mạnh chuông. Bỗng đâu ùa tới cơn gió thổi quanh, dường như cũng đang cùng thầy trò họ tiễn đưa ông chủ chặng đường cuối cùng.
Những điều bí ẩn xoay quanh nghề dẫn xác vẫn còn đó, để lại trong tôi nhiều điều chưa được giải đáp.
Rốt cuộc, người dẫn xác đã làm thế nào để khiến thi thể có thể “đi” được như vậy? Lẽ nào họ thật sự có phép?
Lương Vĩnh Nguyên không chịu tiết lộ, nhưng cho tới một lần, sau khi uống rượu say, anh ta mới lỡ mồm nói ra sự thật.
Hoá ra bí mật của nghề này nằm ở 3 điểm.
Thứ nhất là thuốc. Nghe nói người tộc Miêu ở Tương Tây dùng lá thuốc mình trồng được nghiền thành một thứ thuốc thần bí, bôi lên thi thể có thể chống thối rữa, đồng thời làm mềm những khớp xương nối trên thi thể.
Thứ hai là bùa chú. Chúng ta thường nhìn thấy bùa chú trấn yêu ma quỷ quái trong phim có sức mạnh vô cùng ghê gớm. Nhưng, tác dụng thực sự của nó chỉ là dùng để dán vào những nơi da bị lở loét trên thi thể, rắc bột thuốc có thể phòng ngừa côn trùng và tránh ruồi muỗi bu vào.
Thứ ba chính là cái sào tre dùng để dựng thẳng thi thể, bắt buộc phải nhuộm đen. Chúng ta thường nhìn thấy hình ảnh cương thi giơ hai tay trước mặt, nhảy cà tưng trên phim ảnh, thật ra chính là nhờ những cái sào tre được luồn qua ống tay áo của thi thể và buộc chặt lại. Bên ngoài thi thể khoác lên 1 lớp áo liệm lớn khiến người khác không thể nhìn thấy rõ sào tre bên trong. Thêm vào đó, sào tre cũng khá dẻo, nhờ có sức nặng của các thi thể mà khi di chuyển sẽ xuất hiện hiện tượng dao động lên xuống. Vào ban đêm, trông như cảnh tượng các thi thể đứng thẳng, giơ hai tay và nhảy về trước vậy. Và đó cũng là lý do cần hai người dẫn xác, một người phía trước một người phía sau, dùng gậy tre khiêng thi thể đi.
Tôi bỗng hiểu ra, bí mật của người dẫn xác, hoá ra lại đơn giản như vậy.
Ngày trước, vì quá sợ hãi nên người dân thổi phồng nghề dẫn xác thành vô vàn câu chuyện thần bí khác nhau, khiến mọi người tưởng rằng, người dẫn xác thật sự có thể điều khiển thi thể.
Bây giờ xem ra, tất cả những đồn đoán đó đều do con người ta hoảng sợ mà nghĩ ngợi lung tung.
Nghề dẫn xác này, thật ra không hề đáng sợ. Đằng sau những hành động lắc chuông dọa người, đánh chó, nạt trẻ, chỉ nhằm mục đích hy vọng không có ai làm phiền đến sự tĩnh mịch của người đã khuất.
Những năm về sau, Lương Vĩnh Nguyên không làm nghề dẫn xác nữa.
Những lúc rảnh rỗi, anh ta sẽ lên thành phố làm việc, đến thời điểm vào vụ mùa thì lại trở về quê.
Thỉnh thoảng cũng sẽ qua nhà thăm thầy.
Giờ đây, ông đã già yếu nhiều rỗi, và có lẽ cũng bởi vậy mà không còn ai đến nhờ thầy “dẫn xác” nữa.
Lương Vĩnh Nguyên tự nguyện ở bên, chăm sóc thầy, chu đáo như phụng dưỡng chính bố mẹ mình.
Chỉ có điều, dăm bữa nửa tháng, mỗi khi thầy hỏi dạo gần đây có còn dẫn xác nữa không, anh đều ấp úng không biết đáp sao.
Lương Vĩnh Nguyên biết, thời của người dẫn xác, đã kết thúc rồi.
Bây giờ cho dù cách trở bao xa đi chăng nữa, người chết vẫn có thể dễ dàng trở về với quê hương. Nhưng cũng bởi vậy mà tình cảm chốn làng xóm cũng càng ngày càng mờ nhạt.
Có những người lên thành phố, sống chết bám trụ ở đấy chứ nhất quyết không quay về thôn quê.
Năm 2015, Lương Vĩnh Nguyên bỗng tìm đến tôi nhờ giúp đỡ.
Tôi hỏi có việc gì gấp vậy, anh nói cần tôi tìm cách xin giúp giấy phê duyệt của Cục Dân Chính Chu Châu cho anh.
Tôi vội vàng hỏi gốc gác mọi chuyện.
Lương Vĩnh Nguyên thở dài, nước mắt lăn dài nơi khoé mắt: “Thầy tôi, đi rồi.”
Hoá ra, thầy lên đến thành phố Chu Châu để thăm em gái, vui vẻ nâng vài ly rượu nhưng đột nhiên lại bị sốc phản vệ, cảm thấy bồn chồn, khó thở, cuối cùng không cấp cứu kịp thời mà mất ngay tại nhà em.
Theo quy định nơi đây, phải hoả táng trong thành phố, sau đấy đem tro cốt trả về quê.
Lương Vĩnh Nguyên tất nhiên không đồng ý, anh ta cho rằng cả đời thầy đã làm nghề dẫn xác với tâm nguyện đưa người chết trở về đoàn tụ với gia đình, vậy thì giờ đây, người mất là thầy, anh nhất định cũng phải thực hiện được di nguyện “lá rụng về cội” ấy.
Vì lẽ đó, mà anh ta tìm đến tôi.
Tôi mủi lòng, quyết giúp Lương Vĩnh Nguyên lần này.
Thôi Kiến Viễn rất có tiếng ở thôn Long Hoa, vậy nên lãnh đạo ở Chu Châu cũng tôn trọng tập tục quê nhà, đồng ý với yêu cầu này.
Lương Vĩnh Nguyên vội vàng đến thành phố Chu Châu đón thầy về nhà.
Thế nhưng, đến khi anh ta tới nơi, thi thể Thôi Kiến Viễn đã nằm trong tủ đông rồi. Nhìn thấy bóng hình người thầy năm xưa giờ đây lại lạnh lẽo nằm đó, Kiến Viễn không kìm được mà chạy đến ôm chầm lấy, khóc không thành tiếng.
Sau đó, nhà tang lễ định phân xe, đưa thi thể của ông về thôn Long Hoa, nhưng Lương Vĩnh Nguyên lại từ chối yêu cầu này.
Khi đó anh ta không kìm được mình, gắt gỏng: “Thầy dặn dò tôi, nếu ông mất ở nơi đất khách quê người, thì tôi nhất định phải dẫn xác ông về! Không đến lượt các anh! Việc này cứ giao cho tôi.”
Thấy vậy, tôi vội vàng khuyên nhủ anh ta: “Tôi biết anh có thể dẫn xác, nhưng thời tiết nóng bức như vậy, hơn nữa, thôn Long Hoa lại cách đây quá xa. Bây giờ cũng không còn quán trọ xác chết nữa, cả chặng đường dẫn xác này, anh có thể không làm sao, nhưng thầy anh thì thế nào?”
Lương Vĩnh Nguyên bị tôi làm lung lay ý chí, nhưng vẫn cố chấp nói: “Mấy anh đưa tôi đến thôn Mã Gia, nơi đó cách thôn Long Hoa không xa. Lần đầu tiên tôi hành nghề là ở đó, bây giờ, tôi hy vọng, cũng có thể kết thúc nó tại đây.”
Tôi khuyên nhủ hồi lâu, anh ta vẫn giữ nguyên ý định, vậy nên không thể làm gì thêm.
Xe lăn bánh, Lương Vĩnh Nguyên ngồi trên xe, hút thuốc, mặt mày ủ rũ, đầy đau khổ.
Trên cả quãng đường, chúng tôi tâm sự rất nhiều chuyện.
Lương Vĩnh Nguyên có chút không cam tâm, nói mình muốn làm người dẫn xác cả đời.
Nhưng làm gì còn xác cho anh ta dẫn nữa?
Tôi an ủi, nói rằng, vận chuyển thi thể ở nhà tang lễ bây giờ là công việc tương tự với nghề dẫn xác, nhưng họ dùng xe, như vậy có thể nhanh chóng chở thi thể về quê hương an táng, để người thân bớt đôi phần lo lắng. Đây lẽ nào không phải là chuyện tốt hay sao?
Lúc này, tâm trạng Lương Vĩnh Nguyên mới tốt lên đôi chút.
Sau đó vài ngày, xe đã về đến thôn Mã Gia.
Lương Vĩnh Nguyên bảo nhân viên nhà tang lễ đặt cỗ quan tài lạnh ngắt xuống, nhấc thi thể bên trong ra.
Nhân viên không đồng ý, họ cho rằng thi thể để ra ngoài không khí như vậy, chẳng mấy mà bắt đầu thối nát mất.
Tôi liền ngăn họ lại.
“Không sao đâu, để anh ấy làm vậy đi, anh ta dẫn xác cả đời rồi, sẽ không xảy ra sai sót gì đâu.”
Lương Vĩnh Nguyên lấy bùa chú, thuốc bôi của mình ra.
“Mấy anh nhìn mà học tập đây này.”
Anh ta bôi một lớp thuốc lên thi thể của thầy, sau đó dán bùa chú xung quanh, không những vậy, còn chuẩn bị sẵn cho thầy một bộ áo trắng và một cái nón vải.
Sau khi làm xong thủ tục, mắt anh ngấn nước, cõng thầy trên lưng, miệng hô: “Khởi.”
Chúng tôi trang nghiêm dõi mắt theo bóng hai thầy trò, thể hiện lòng tôn kính với người đã khuất.
Phải chăng, đây chính là sự kế thừa của nghề dẫn xác, đồng thời cũng là bước ngoặt lớn trong tập quán thôn quê.
“Thầy ơi, mình về nhà thôi…”
Nói xong, anh ta mãn nguyện, từng bước từng bước tiến về thôn làng thân quen của mình, của thầy.
Dù cho hiện tại đang là ban ngày, anh ta cũng chẳng thèm để ý.
Trên cả quãng đường đi, không ít người bủa vây xung quanh.
Có người nhận ra Lương Vĩnh Nguyên, cũng có người biết Thôi Kiến Viễn, nên cứ vậy mà âm thầm đi cạnh tiễn ông quãng đường cuối cùng.
Lương Vĩnh Nguyên vừa đi vừa dừng, chúng tôi cũng nối theo tiễn bước anh. Đường núi gập ghềnh, mặc cho lên dốc khó khăn, có người muốn giúp nhưng anh ta vẫn nhất quyết từ chối: “Tôi biết phải làm thế nào, không cần anh giúp.”
Tốn nhiều công sức lắm, anh ta mới có thể vác được thi thể của thầy lên dốc. Mặt đỏ ửng, gân xanh nổi đầy hai bên cánh tay, nước mắt không kìm được mà rơi lã chã.
Thôn Long Hoa ngày một gần, Lương Vĩnh Nguyên cũng ngày một trở nên im lặng. Thi thoảng, chỉ nghe thấy anh ta hổn hển thốt ra mấy câu:
“Lá rụng… phải về cội.”
“Chúng ta… phải về nhà.”
Chỉ còn vài trăm mét nữa thôi, hai thầy trò sẽ trở về chốn thân thương.
Lương Vĩnh Nguyên dừng lại thở dốc.
“Thầy ơi, chúng ta về đến nhà rồi.”
Anh ta miệng cười nhưng nước mắt lại không ngừng tuôn rơi.
Nghề dẫn xác đã trở thành một truyền thuyết ở Tương Tây.
Dù cho người trẻ tỏ ra giễu cợt, nhưng những người lớn tuổi hơn, thì lại hiểu và tôn kính muôn phần.
Thực ra, đằng sau tất cả, chính là chấp niệm và mong muốn được trở về với quê hương.
Nếu có một ngày, bạn bắt gặp một người mặc áo trường sam xanh sẫm, lắc chuông đồng, vác thi thể ở Tương Tây, xin đừng sợ hãi.
Đó chỉ là một người tận tâm, tận huyết, không ngại trắc trở, vác trên lưng cả ước nguyện to lớn của một linh hồn mất nơi xa xôi, đó là được trở về nhà.
Họ chỉ đang dùng hết sức mình, hoàn thành tâm nguyện “lá rụng phải về cội” của người đã khuất mà thôi!
-HẾT-
