Bạn bất tử. Vấn đề duy nhất là bạn sống lâu đến mức loài người tuyệt chủng và một sinh vật thông thái khác đã tiến hoá. Giờ đây bạn buộc phải sống trong rừng như một sinh vật bí ẩn.

Là tôi: một con quái vật, một con quỷ, một kẻ sát nhân trong đêm, một hồn ma của khu rừng kim loại.

Chỉ có một điều trong số đó là đúng: Tôi là một hồn ma. Tôi là ký ức sống động của quá khứ xa xưa, khi mà con người còn cai trị hành tinh này. Chúng tôi đã dựng nên những toà tháp chọc trời, bất chấp trọng lực vĩ đại của tạo hoá và đi lên các vì sao. Chúng tôi đã sống, đã chinh phục và cũng đã qua đời. Khi chúng tôi phát minh ra một loại thuốc khiến mình bất tử, trong vòng mười năm, tất cả đều đã chết. Chết bởi chính quá trình tái tạo tế bào một cách siêu tốc của chính bản thân.

Tất cả trừ tôi.

Tất cả những gì còn sót lại của nhân loại giờ đây là xương cốt của thành phố, và tôi đang sống ở một nơi như vậy. Manhattan đã miễn cưỡng hoá thành một khu rừng lần nữa. Đã hàng trăm năm trôi qua kể từ khi con người cuối cùng bỏ mạng. Nhựa đường nứt toát, vỉa hè nát tan. Cỏ nhú mầm qua những đống vụn vỡ, chúng đan vào nhau thành thảm rừng mới cứng. Dây leo cuộn tròn quanh những khung nhà chọc trời đã tê liệt.

Bây giờ, nơi này mang một vẻ đẹp kỳ quái.

Tôi tản bộ qua những toà nhà nhếch nhác và một mình ăn trong bóng tối, rồi mơ về những đám đông sẽ không bao giờ trở lại.

Tôi sống trong một căn hộ cũ không có cửa sổ, chỉ có mắt hướng lên trời. Có cơn gió rì rào lướt qua và những chú chim nép mình bên cạnh. Thỉnh thoảng nơi đó xộc lên mùi phân chim, nhưng tôi không bận tâm lắm. Chúng là những người bạn tốt. Chúng không quay đầu bỏ chạy khi thấy tôi. Cũng không bắn phá. Hay la hét. Tôi biết hết tên của chúng và có một con chim sẻ nhỏ mà tôi đặt tên là Delilah, nó sẽ dựa vào ngực tôi mỗi khi tôi ôm nó ngủ cùng.

Hôm nay, tôi đang đứng trong căn hộ của mình nhìn xuống thế giới. Tôi có một cái loa cắm vào cái iPod cũ đã bị hư màn hình từ lâu. Cả hai được cấp năng lượng từ bộ sạc pin mặt trời cuối cùng mà tôi có. Chẳng bao lâu nữa thì sẽ hết pin thôi và tôi sẽ lạc mất âm thanh của những người khác.

Nói. Cười. Hát hò. Tôi có một bản ghi âm mình hiểu rõ từng từ, nghe đi nghe lại nó khiến sự bất tử bớt cô đơn hơn một chút.

Tôi vặn nút đến khi nghe bài hát quen thuộc của Frank Sinatra: đó là cuộc sống, dù tôi không thể phủ nhận nó… Tôi đã nghĩ đến việc từ bỏ, nhưng em yêu, trái tim tôi không chịu tin nó.

Tôi đang lắc lư cùng tiếng chim véo von, Sinatra đang hát vang trên màn hình xanh bên dưới khi tôi thấy thứ gì đó. Bên dưới đang có chuyển động.

Tôi vội tắt loa, nhưng chúng đã nhìn thấy. Đầu chúng quay lại, nhìn chằm chằm tôi, những đôi mắt quái dị nhìn vào mắt tôi.

Con người đã chết, nhưng trái đất không trống rỗng. Không bao giờ trống rỗng.

Tôi không biết những kẻ mới chiếm giữ hành tinh tự gọi chúng là gì. Chúng đổ bộ đến đây vài thế kỷ trước, có vẻ khá quen thuộc nhưng cũng rất xa lạ. Tôi tự hỏi liệu mình có giống chúng không. Những sinh vật này đi bằng hai chân, có vảy mờ và da màu xanh lá. Mắt chúng rất to và tối màu, trông như mắt ngựa, khi di chuyển trên đường, chúng đi nhanh đến mức khó tin và bò bằng hai chi khác của mình.

Con này trông như chưa trưởng thành. Chỉ là một đứa trẻ. Tuần trước tôi đã thấy mọt đúa ở đây, nhưng tôi chắc chắn rằng nó không thấy mình. Bây giờ nó đã quay trở lại.

Khi thấy tôi nhìn chằm chằm, cả hai cánh tay bên trái của nó nhấc lên, vẫy vẫy.

Tôi cúi thấp xuống. Trái tim đang gào thét bên tai. Những con chim vặn vẹo đầu nhưng không hề để ý.

Lũ chim có theo tôi nếu tôi bỏ trốn không? Nếu tôi không bao giờ trở về đây thì sao? Đây không phải lần đầu tiên tôi di dời vì khám phá, nhưng là lần đầu tiên tôi mất đi bạn đồng hành duy nhất của mình.

Tôi nhìn qua mép cửa sổ lần nữa.

Đứa trẻ đã đi mất.

Cảm giác chờ đợi như vĩnh cửu. Nửa tiếng. Có lẽ là một tiếng đồng hồ.

Tôi bật Sinatra lên. Giờ đã yên tĩnh hơn. Tôi từng là một con rối, một gã ăn mày, một tên cướp biển, một nhà thơ…

Khi tôi quay lại, nó ở đó. Nó đứng im lặng ở ngưỡng cửa, lấp ló, như thể nó không chắc rằng mình có muốn đi vào hay không.

Sinatra hát, …một con tốt và một vị vua…

Đứa trẻ hẳn phải nhìn thấy nỗi kinh hoàng trên mặt tôi vì nó vẫy cả bốn tay và chớp mắt lia lịa, nói những tiếng lách cách mà tôi chả hiểu gì. Nó chỉ vào cái loa rồi vỗ cả bốn tay vào nhau. Nó không cười, nhưng cái ăng-ten mỏng trên đầu rung lên một cách có ý nghĩa.

“Ngươi không nên ở đây.” Tôi nói. Tôi ghét chất giọng run rẩy của mình.

Tên ngoài hành tinh giơ một móng vuốt lên rồi cho tay vào túi. Tôi cứng người, tự hỏi mình sẽ làm gì, nếu nó rút ra một khẩu súng gai. Nhảy khỏi cửa sổ sẽ tốt hơn bất cứ thứ gì chúng sẽ làm với tôi.

Nhưng nó chỉ lôi ra một cái túi kim loại bong tróc. Nó thò tay vào trong, lấy ra một thứ mà tôi chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ.

Một quả cam tươi. Bé hơn loại mà con người từng có, nhưng tôi chẳng thể cưỡng lại. Tôi vương tay ra cầm lấy.

Giờ thì mấy cái ăng-ten đó thực sự đang rung lên như một con chó vẫy đuôi, tôi gật đầu và nó cũng thế, nó là điều gần nhất tôi từng giao tiếp ngoài mấy chú chim của mình.

Đứa trẻ chỉ vào cái loa, thắc mắc và tôi trả lời. “Âm nhạc, âm nhạc” cho đến khi nó gần như có thể lặp lại, dù nghe giống “âm lạc” hôn và tôi không cưỡng lại nổi.

Lần đầu tiên tôi có thể nhớ được mình đã cười. Mặt tôi trông lạ lẫm, kiểu như bị chia tách ra vậy.

Tôi vỗ vào cái ghế trống cạnh mình, đứa trẻ ngồi xuống. Chúng tôi cùng ăn cam và đó là thứ ngọt ngào nhất tôi từng nếm qua.

“Ngươi có trở lại không?” Tôi hỏi, khi nó rời đi.

Nó lại lách cách gì đó rồi siết chặt tay tôi bằng hai tay trái của mình.

Nó nói đi nói lại gì đó. Tôi hi vọng đấy là ừ hoặc bạn bè hay được thôi, anh không phải cô đơn nữa đâu.

Tôi nhìn đứa trẻ đi xuống, rời khỏi tòa nhà đổ nát, ánh mặt trời khiến bóng nó dài lê thê. Sinatra ngâm nga sau lưng, nếu tôi không nghĩ rằng nó đáng để thử, tôi sẽ nhảy lên một con chim lớn rồi bay đi…

Hai con chim đậu lên vai tôi là cô chim sẻ Delilah và chú bồ câu mũm mĩm tên Ted.

“Này các bạn.” Tôi thì thầm, lần đầu tiên âm giọng của tôi nghe ít lẻ loi đến thế. “Tôi nghĩ chúng ta vừa có một người bạn đấy.”

Ngày qua ngày, tôi chờ đợi, ngóng ra bụi cây nơi đứa trẻ xuất hiện. Vừa muốn nó đến vừa không, bởi tôi sợ lần này, nó sẽ không đến một mình.

Nhưng hai hôm sau nó mang những quả táo đến. Rồi một món xà lách trộn tự làm có vị rau mùi và cỏ xạ hương.

Chúng tôi luôn làm mấy việc giống nhau. Chúng tôi ngồi ăn uống, dạy đối phương từ ngữ mới. Đứa trẻ tên Skitsch và tôi biết cuộc sống của nó thông qua ngôn ngữ lách cách như băng trôi tí tẹo: chim, vui, nhạc, xin chào, có.

Một ngày nọ, Skitsch chỉ trỏ giữa bọn tôi rồi nói. “Skilki, skilki.

Tôi bối rối nhìn, đến khi nó kêu lách cách. Tôi gật đầu. “Chúng tôi cũng có từ để mô tả điều đó.” Tôi siết tay nó trong bàn tay mình. “Skilki. Bạn bè.”

Tôi biết nó không sống mãi. Nhưng tôi mong Skitsch sẽ làm bạn tôi đủ lâu để tiễn tôi vào cõi vô định với nụ cười trên môi.

_____________________

Dịch bởi Ed

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *