MỘT GÃ ĐÃ ĐỨNG GIỮA CON ĐƯỜNG NHÀ CHÚNG TÔI TRONG 4 NGÀY QUA. CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ RA NGOÀI

Tôi thức giấc khi thoáng nghe tiếng nức nở vọng đến từ nơi nào đó. Ban đầu, tâm trí mỏi mệt và thiếu tỉnh táo của tôi đã gán tiếng đó là của một trong lũ trẻ. Nhưng nằm càng lâu, tôi càng nhận ra sự “sai sai” trong âm thanh đó. Tiếng nức nở đó quá trầm, na ná tiếng một người đàn ông trưởng thành. Nó vọng ra từ trước nhà chúng tôi.

“Anh kiểm tra lũ trẻ giúp em với…” vợ tôi lầm bầm khi nằm cạnh tôi, chưa tỉnh ngủ.

“Không phải lũ trẻ”, tôi thì thầm lại với cổ đầy khó chịu.

Tôi đến bên cửa sổ, hé nhìn ra ngoài, nhanh chóng xác nhận sự nghi ngờ của mình. Đúng như tôi nghĩ, ở giữa đường có một gã đang đứng khóc rấm rứt. Mặc dù những ngọn đèn đường phần nào soi vào hắn ta, có điều gì đó rất sai về sự xuất hiện của hắn. Hắn ta đứng im như tượng dù cứ nức nở, dường như không dừng một khắc để thở từ lúc hắn dùng tiếng khóc của mình để xé toạc sự yên tĩnh buổi đêm.

Bên kia đường, tôi có thể thấy đèn của vài nhà hàng xóm bật sáng lên. Có vẻ nhiều người đã bị đánh thức bởi tiếng động thảm thương đó.

Bản năng đầu tiên của tôi là định xuống xem thử xem là anh ta có cần giúp đỡ không. Ấy vậy mà, điều gì đó về vẻ ngoài của hắn như trói chặt tôi tại chỗ. Tôi cứng người sợ hãi và không thể nghĩ ra nên làm gì tiếp. Hắn cao, với mảng tóc ngả xám hiện lên từ phần đầu hói của hắn ta. Hắn đứng đối diện với nhà tôi, nhưng vì ánh đèn đường mờ ảo tôi không thể nhìn rõ gương mặt của hắn.

Nửa giờ trôi qua và tôi nhận ra mình không di chuyển một inch nào. Tôi chôn mình ở đó, chỉ thoát khỏi cảm giác đấy khi vợ tôi tỉnh giấc và hỏi tôi đang làm gì.

“Anh…Anh không biết nữa,” tôi lấp bấp. “Có một gã đang đứng giữa đường. Anh nghĩ gã ta cần giúp đỡ.”

Joanna đến và nhìn qua cửa sổ. Dù trong bóng tối, tôi cũng có thể thấy rằng gương mặt của cô ấy chuyển sang trắng bệch dù chỉ mới liếc nhìn qua gã đó.

“Chuyện gì thế?” tôi hỏi.

“G-gọi cảnh sát mau, đừng đi ra ngoài,” cô ấy bảo bằng chất giọng run rẩy.

“Sao thế? Em đã thấy gì?”

“Em kh-em không biết-nhưng đừng đi ra ngoài, xin anh đó,” cô ấy nài nỉ tôi.

Tôi nắm tay cô ấy và nhẹ nhàng kéo cổ ra khỏi cửa sổ. Điều gì đó về gã ta khiến cả hai chúng tôi rơi vào một trạng thái hoảng loạn không tên. Nhưng trừ ngoại hình kì quặc của hắn ra, không còn một lí do nào giải thích hợp lí cho nỗi sợ của bọn tôi cả.

“Joanna, em đi kiểm tra lũ trẻ đi. Anh sẽ gọi cảnh sát, được chứ?” Tôi nửa hỏi nửa kêu cổ đi.

Cô ấy gật đầu, và chạy ngay xuống tầng vào phòng tụi nhỏ.

Tôi nhấn số gọi 911, tôi tự hỏi mình nên nói gì để tố cáo tội ác của một gã đàn ông vô hại, chỉ đứng đó và khóc. Tuy nhiên chẳng còn lựa chọn nào khác, tôi nhấc máy lên gọi.

“9-1-1, tình huống khẩn cấp của bạn là gì?” một phụ nữ hỏi từ đầu dây bên kia.

“Uhm, xin lỗi cô. Tên tôi là Zack Larsen. Có một người đàn ông đứng giữa đường và khóc lóc rất to tiếng. Tôi không biết do anh ta say hay sao đó, nhưng anh ta làm con tôi sợ. Tôi ehm…Tôi không chắc đây là tình huống khẩn cấp, nhưng có gì đó rất sai ở người này,” tôi giải thích.

“Được thôi thưa ông, chúng tôi sẽ gửi một xe cảnh sát đến đó kiểm tra. Phiền ông có thể nào cho tôi xác nhận lại địa chỉ nhà được chứ?” cô ấy hỏi.

Tôi xác nhận những chi tiết cần thiết và cuộc gọi kết thúc. Vì đêm khá vắng lặng, họ chắc với tôi rằng chiếc xe sẽ được gửi đến dứoi 10 phút. Tôi cảm thấy mình đã hoàn thành nghĩa vụ. Và khi Joanna quay lại để bảo tôi rằng lũ trẻ vẫn còn say giấc, tôi thấy bình tâm hơn một chút.

Sau khi đóng rèm, bọn tôi quay lại giường ngủ, tự tin rằng cảnh sát sẽ giải quyết tình huống đó sớm thôi. Và tôi cũng hi vọng rằng đó là kết thúc của chuyện này, tôi thật sự hi vọng như thế. Nhưng định mệnh đã đi trật hướng, và mọi thứ lại càng tồi tệ hơn.

Tôi nằm trên giường, nhưng bức bối không thể ngủ. Chỉ nhìn chằm chằm vào cái đồng hồ tích tắc cả tiếng liền. Gã ta cứ khóc, sụt sùi mãi không dứt. Hai tiếng trôi qua, cảnh sát vẫn chưa đến. Lúc đó tôi quyết định sẽ ra cửa sổ kiểm tra xem sao, nhưng chỉ thoáng nghĩ về gã đứng đó cũng làm tôi không dám chạm vào tấm màn cửa.

Khoảng 4h sáng tôi khá chắc mình đã thức trắng đêm. Nhưng khi tia nắng đầu tiên đập vào rèm cửa, cả thế giới quanh tôi bỗng sập tối, như muốn ép tôi vào một giấc ngủ không mộng mị. Điều kinh dị nhất là, đến lúc đó cơn nức nở vẫn chưa bao giờ ngớt.

Thêm nhiều tiếng đồng hồ trôi qua, tôi vẫn kẹt trong trạng thái bứt rứt đó; trạng thái nửa tỉnh nửa mê.

—–

Khi đã hoàn toàn tỉnh giấc, tôi lại thấy màn đêm bao phủ khắp nơi. Đáng lí giữa mùa hè như này thì mặt trời sẽ ló rạng khoảng 6h sáng, lần trước tôi xem đồng hồ là 4h, tức là tôi chưa ngủ quá nửa tiếng. Mặc cho logic đó thì cơ thể của tôi còn hơn cả hỏng hóc. Tôi thấy mình mất nước đến đau đớn, còn bàng quang thì căng như sắp vỡ.

Tôi lăn khỏi giường, cơ thể yếu ớt và rệu rã, vẫn nghe âm thanh từ gã khóc lóc ngoài kia. Trong khi đó, vợ tôi vẫn đang say giấc nồng, dường như chẳng để tâm gì đến thứ tiếng khó chịu kia.

Tôi lấy điện thoại và kiểm tra thời gian. Nó hiển thị 12:03 sáng, thật không thể tin được khi tôi đã thấy mới 4 giờ vài khắc trước. Tôi loạng choạng đi về phía cửa sổ, vẫn còn hoang mang, nhưng tôi phải biết chính xác chuyện quái quỉ gì đang diễn ra vậy.

Gã ta chỉ đứng đó, không di hề di chuyển từ lần cuối tôi thấy gã. Dưới đường tôi còn chú ý đến một chiếc xe cảnh sát với đèn nhấp nháy, nhưng những cảnh sát thì biến đâu mất tăm.

“Cái đ gì thế này?” Tôi lẩm bẩm.

Cũng như lần trước, nhìn vào gã khiến tôi đứng thất thần. Chỉ khi một giọng nói nhỏ xíu phát ra từ phía sau mới kéo tôi ra được.

“Sao ông ấy lại khóc vậy ba?” con trai tôi hỏi.

“Này, Alex, em trai con đâu rồi?” tôi hỏi ngược lại.

“Em ấy trong phòng í. Em ấy làm ướt giường rồi”, Alex nói.

Steven chỉ mới lên 5, nhưng tôi chắc rằng giai đoạn mà nó tè dầm lần cuối cùng là vào hơn 1 năm trước. Trước khi kiểm tra nó, tôi quyết định gọi cảnh sát một lần nữa. Nhưng trước khi kịp bấm máy gọi, tôi chú ý đến ngày tháng.

Hôm nay đã là thứ Bảy, tức là chúng tôi đã ngủ liền tù tì 24 tiếng, bỏ qua luôn ngày thứ Sáu.

“Alex, con về phòng con đi. Ba phải gọi điện một lát, sau đó ba sẽ đến và kiểm tra nhé?”

Trong cơn sốc, tôi viết vội những thông tin lên tấm lịch và gọi cho cảnh sát. Than ôi, tôi kinh hoàng tột độ khi điện thoại không có lấy một cột sóng.

“Chúa ơi, chúng ta đã ngủ qua nguyên một ngày, sao lại thế được?” vợ tôi kêu lên đầy hoang mang và xấu hổ. Cô ấy vừa lăn đến để xem giờ.

“Anh không biết…” tôi từ tốn đáp, “nó không hợp lí gì cả.”

“Và gã đó vẫn khóc à? Cảnh sát đâu cả rồi?” cô ấy hỏi.

“Xe của họ ngay kia kìa, nhưng họ chỉ…biến mất…”

Từng phút trôi qua, tôi mới hoàn hồn rằng chúng tôi đã mất nguyên một ngày. Đó là lí do Steven tè dầm, đó là lí do bàng quang tôi như muốn vỡ tung, vì chúng tôi đã chìm vào cơn mê. Chúng tôi bị ép phải ngủ qua ban ngày, chỉ để thức giấc và chống chọi lại với nỗi kinh hoàng của buổi đêm.

Nhưng với cương vị là phụ huynh, chúng tôi có một khả năng tuyệt vời để xem xét việc cần ưu tiên hàng đầu. Mặc kệ tình huống oái oăm, chúng tôi phải chăm sóc lũ trẻ trước. Bọn tôi đến lau dọn giường Steven, cùng lúc nghĩ ra cách để thoát khỏi chuyện này. Hai chúng tôi thử hết cái điện thoại này đến cái điện thoại khác, gọi điện cầu cứu trong vô vọng. Điện không được thì thử qua internet, và nó cũng công cốc cả.

“Bật thử ti vi đi anh,” Joanna gợi ý.

Bật món “đồ cổ” đó lên, chúng tôi thấy nhiều thứ hơn là chỉ một màn hình nhiễu. Đó là một màu trắng xoá cùng vài hình ảnh đơn giản. Từ những gì chúng tôi đoán, hình ảnh đó là một người đàn ông đứng trước camera. Một dòng chữ được chèn lên đó: “Hãy đi ra ngoài.”

“Sao nó làm được điều đó?” Joanna hoảng loạn hỏi.

“Anh không biết, nhưng anh chắc một điều là đi ra ngoài là một ý tưởng tệ vl,” tôi buột miệng, trong một chốc quên mất sự hiện diện của lũ trẻ. “Xin lỗi em, anh không định nói bằng giọng như thế.”

Joanna và tôi lại đằng cửa sổ và yêu cầu đám trẻ đi chỗ khác. Phía đối diện của con đường, một trong những người hàng xóm của chúng tôi loạng choạng bước ra, trông như bị mất phương hướng. Trên tay anh ta cầm cây gậy bóng chày.

“Tao sẽ đập chết m* mày!” anh ta hét lớn.

Tôi mở cửa sổ, định la lên kêu anh ta quay lại nhà mình đi. Nhưng anh ấy đã sớm đến được chỗ gã khóc lóc kia. Bỗng, bầu không khí đột ngột im bặt. Một giây sau, tiếng nức nở bị thay thế bằng một tràng cười điên dại và tăng dần sức nặng sau mỗi giây.

Dù cho có biết tiếng cười đó đến từ gã đàn ông, nó lại đồng thời nghe như chính ai đó đang đứng trong nhà của chúng tôi. Đó là âm thanh to nhất tôi từng nghe, đủ để khiến chúng tôi chịu sự thống khổ tột cùng.

“Đóng cửa sổ lại!” Joanna la lên.

Tôi nhanh chóng làm theo nhưng vô ích cả. Dù đã cố hết sức, tiếng cười vẫn dăng dẳng và ồn ào hết cỡ. Và cũng như khi bắt đầu, nó “bất chợt” tắt ngóm.

“Tiếng gì vậy ạ?” Alex khóc khi Joanna ôm chặt thằng bé và Steven vào lòng.

“Shh, không sao đâu con,” cô ấy dỗ dành nhẹ nhàng hết sức có thể, “chỉ là đừng đến gần cửa sổ các con nhé?”

Khi tôi đứng dậy để xem tình hình ngoài kia, người hàng xóm đã tan biến hoàn toàn. Tất cả những gì còn sót lại của anh ta là một vệt máu đỏ cùng nội tạng trải dài về phía tên quái vật kia. Tên đó bây giờ lại tiếp tục khóc lóc không ngừng.

“Anh ta đã biến mất…” tôi thì thầm thốt lên.

Những giờ tiếp theo, chúng tôi giữ im lặng tuyệt đối. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là đợi đến lú bình minh và cầu nguyện một lối thoát. TV vẫn bật phòng khi một tin tức gì mới được phát. Đám trẻ dù có lo lắng, nhưng chúng vẫn còn quá nhỏ để hiểu sự tồi tệ của việc này. Điều này khiến tôi có chút ghen tị. Chúng xem bọn tôi như những vệ sĩ vô song, có thể bảo vệ chúng khỏi bất cứ điều gì xấu xa. Cơ mà sau tất cả những gì tôi vừa chứng kiến, có lẽ điều đó đã sai rồi.

Cả nhà tôi xuống bếp lấy chút đồ ăn, đếm từng phút chờ đến khi mặt trời ló rạng. Nhưng khi vừa trông thấy sắc cam ánh lên phía hừng đông, tôi một lần nữa cảm thấy cả thân thể ngã quỵ. Chưa đến một giây, bóng tối đã chiếm lấy tôi, rồi tôi lăn ra bất tỉnh trên sàn nhà.

—–

Chúng tôi tỉnh dậy khoảng nửa đêm hôm sau, điều này nghĩa là một một ngày mới đã đến và lại trôi qua. Nhưng lúc đó chúng tôi không có điện thoại hay máy tính để xem ngày. Pin của mọi thiết bị đều đã cạn sạch. Tất cả những gì chúng tôi còn là vài chiếc đồng hồ đeo tay để xem giờ.

Tiếng khóc vẫn cố chấp không ngưng. Thậm chí có vẻ còn to hơn một chút sau khi người hàng xóm bị giết chết. Dù âm thanh thảm thương đó kéo dài, nó lại không có một tí nỗi buồn nào cả. Càng nghe nó, chúng tôi lại càng ít tin rằng gã đó là con người.

“Bật đèn lên đi, cái thứ đó làm em sợ chết khiếp,” Joanna bảo.

Tôi bật công tắc, không có gì xảy ra. Sau khi vô vọng kiểm tra toàn bộ nguồn điện trong nhà, bao gồm cả hệ thống mạch điện, tôi nhận ra cả nhà của hàng xóm xung quanh đều tối thui. Đó là khi vợ tôi hỏi một câu khiến mọi hi vọng trong tôi tan biến.

“Tại sao họ không đến giúp chúng ta?” cô ấy nói.

Tôi không có một câu trả lời nào tốt, và cũng không thể nói được lời nào dễ chịu lúc này. Tôi chỉ có thể làm điều duy nhất là bảo vệ gia đình mình hết sức khỏi mối đe doạ kinh hoàng ngoài kia, cho đến khi chính tôi cũng không thể chống cự nổi.

Đêm đó chúng tôi chứng kiến thêm 3 người hàng xóm rời khỏi nhà họ, cùng với nỗ lực vô vọng rằng sẽ tiếp cận được với gã ta. Sau mỗi lần như vậy, tiếng cừoi bệnh hoạn lại dội lên, và lại thêm một người chết. Họ thậm chí chẳng buồn chống cự, chỉ bước thẳng lại đó cùng vẻ mặt vô cảm, sẵn lòng đón lấy cái chết đau đớn được bày sẵn.

Chưa bước qua đêm thứ 3, tôi đã bắt đầu hiểu ra lí do vì sao mọi người cứ đi ra ngoài. Chúng tôi bị ép phải ngủ vào ban ngày, chỉ khi ánh sáng đã tắt hết mới được phép tỉnh giấc.

Không thể làm gì, chúng tôi chỉ còn cách nghe tiếng khóc của gã. Âm thanh nức nở đó bắt đầu như một thứ đầy kinh khủng, dần dà lại trở nên thật đáng thương. Cảm giác đó tương tự như một phiên bản vặn vẹo của Hội Chứng Stockholm vậy. Tôi tha thiết muốn ra ngoài đó để gặp gã ta, nhưng không thể bỏ lại gia đình mình phía sau được.

“Có lẽ ông ta thật sự cần được giúp đỡ đó,” Joanna bảo, “em nghĩ, em nghĩ em nên ra ngoài đó.”

Giọng nói của cô ấy đều đều, vô hồn và lạnh lẽo. Cô ấy đứng lên để ra đó, nhưng tôi kịp giữ cổ lại trước khi đến cửa. Cú sốc có vẻ đã đem cô ấy về với thực tại trong một thoáng.

“Nghĩ về đám trẻ đi em,” tôi cầu xin, “Chúng cần bọn mình.”

Lời nói của tôi dường như đã giải thoát (ít nhất là tạm thời) Joanna khỏi trạng thái đó.

“Em biết, em biết mà. Em không hiểu em đã nghĩ gì nữa. Em không phải chính mình nữa,” cô ấy khóc.

Nhưng sự minh mẩn ngắn ngủi không kéo dài lâu, vì khi tôi đang cất đống thức ăn thừa của đêm trước thì nghe tiếng cửa trước mở. Lũ trẻ đã ngủ rồi, và tôi cũng định làm theo. Nhưng tôi phải chạy ngay đến cửa ngay khi nghe tiếng động, và thấy vợ mình sắp rời đi.

“Em xin lỗi,” là những lời nói cuối cùng cô ấy trao cho tôi trước khi rời khỏi nhà.

Bóng tối bao trùm lên mắt tôi trước khi tôi kịp phản ứng. Tiếng cười điên loạn là thứ duy nhất đồng hành khi tôi bị ép chìm vào giấc ngủ, một lần nữa…Lúc tôi tỉnh dậy, Joanna đã đi rồi, và thứ duy nhất còn xót lại minh chứng cho sự tồn tại của em là một vệt máu đông lấp lánh giữa ánh đèn đường, kéo dài đến chỗ gã đàn ông. Tôi không cần gọi tìm cô ấy, tôi biết Joanna đã chết rồi.

Quay về với hiện tại…Bốn ngày đã trôi qua kể từ khi gã đàn ông khóc lóc xuất hiện trên con đường nhà tôi. Chúng tôi vẫn còn đủ thức ăn cho một tuần nữa, nhưng tôi sợ rằng tất cả không thể cầm cự cho lúc đó. Tôi đã chứng kiến phần lớn những người hàng xóm của mình nộp mạng cho gã, và thứ cản tôi làm điều đó là lũ trẻ. Nhưng, kể cả chúng cũng khao khát đi ra ngoài kia, và tôi không biết tôi có thể giữ chúng an toàn trong bao lâu nữa.

Tôi đang ghi lại những dòng này như lời trăn trối cuối cùng trước khi rời khỏi thế giới. Tôi đã dùng cục sạc dự phòng sắp cạn để viết nên lời nhắn này. Tôi không có một chút tín hiệu nào, nhưng tôi hi vọng nếu ai đó vượt qua được, mọi người nên biết về những việc đã xảy ra.

Nếu bạn đang đọc, xin hãy giúp đỡ tôi. Tôi không biết mình còn có thể kháng cự lại tiếng khóc này trong bao lâu nữa.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *