NHẬT KÝ NỮ PHÁP Y – KỲ ÁN XÁC CHẾT TRONG LÒ GẠCH: P3

11.

Chiều ngày 9 tháng 3 năm 2003. Tuyết ngưng.

Tại nhà Mạch Dã ở thôn Đại Oa.

Sau khi rời khỏi tổ chuyên án, tôi gọi điện cho Lý Cường, nhờ chú ấy dẫn đường, rồi lại dặn dò chú: “Đừng nói cho ông biết là cháu đến thôn, không là ông lại mắng cháu vì tội không đến thăm ông.” Lý Cường gật đầu đồng ý.

Thẩm Thư không đồng ý lái xe, nói là thôn Đại Oa bé tí, đi bộ là được rồi, hơn nữa nếu lái xe sẽ gây áp lực cho người trong thôn, có khi lại không tìm hiểu được tình hình một cách chân thực. Lúc này tuyết đã ngưng, mặt đất, mái nhà, tán cây, đều được phủ dày một lớp tuyết trắng phau, cảnh sắc tráng lệ giữa mơ hồ giang sơn này, chỉ có thể nhìn thấy vào mùa đông ở phương Bắc.

Theo kiến nghị của Thẩm Thư, chạm dừng chân đầu tiên là nhà của Mạch Dã. Trước khi đến đã cho thăm dò trường học nơi anh ta làm việc, biết được dạo gần đây sức khỏe anh ta không được tốt, liên tục xin nghỉ phép ở nhà. Nhà của anh ta nằm ở đằng sau trạm lương dầu của thôn, là một căn nhà mái bằng tứ gian được lát gạch xanh ngói đỏ, tọa lạc ở trong một tòa đại viện. Lúc gần đến cửa nhà, tôi thoáng trông thấy khuôn mặt của một người phụ nữ ngó ra từ cửa sổ nhà hàng xóm ở phía Đông, giống như đang xuyên qua lớp kính để quan sát bọn tôi vậy. Tôi mơ hồ cảm thấy khuôn mặt ấy hình như đã gặp ở đâu rồi, đi được hai bước, đột nhiên nhớ ra, đó không phải là Lý Song Song, người đã xảy ra tranh chấp với mẹ Tứ Bình trong vụ án mà tôi xử lý vào cái lần trước khi đến thôn Đại Oa đó sao?

Tôi hỏi Lý Cường: “Kia là nhà của Lý Song Song à chú? Bà ta và Mạch Dã là hàng xóm à?” Lý Cường đáp: “Không những là hàng xóm, nghe thiên hạ nói quan hệ của bà ta với Trương Phương trước đây còn rất tốt, hai người còn suốt ngày thì thầm to nhỏ với nhau cơ.” Tôi nhìn thấy nét thăm dò trong ánh mắt của Thẩm Thư, bèn kể lại một cách đơn giản cho cậu ấy nghe về vụ tranh chấp giữa mẹ Tứ Bình và Lý Song Song mà tôi đã hỗ trợ giải quyết. Thẩm Thư nói: “Sau khi ra khỏi nhà Mạch Dã, đến nhà Lý Song Song một chuyến xem sao, bọn họ là hàng xóm, lại còn là bạn, nói không chừng sẽ cung cấp được manh mối có giá trị.”

Đứng trước cửa nhà Mạch Dã gọi suốt một hồi mới có người bước ra, nhưng lại không phải Mạch Dã, mà là ông anh rể Trương Phàm. Trương Phàm vội chạy đến mở cửa, áy náy nói với Lý Cường: “Chú, trong nhà mở ti-vi nên cháu không nghe thấy động tĩnh ở bên ngoài, chú đợi lâu chưa?” Lý Cường đáp: “Không sao, sao cháu lại ở đây? Mấy vị này là cảnh sát từ thành phố xuống, giúp điều tra về vụ án của Trương Phương, đến đây để gặp Mạch Dã.”

Lý Cường vừa nhắc đến tên của Trương Phương, khóe mắt của Trương Phàm lại đỏ au, ứa nước mắt, nói: “Thực sự cảm ơn mọi người, trời lạnh thế này, mọi người lặn lội từ trên thành phố xuống đây, đã vất vả rồi, nếu có thể sớm phá được án, em gái cháu ở dưới cửu tuyền cũng nhắm được mắt. Cô cảnh sát đây, lần trước chúng ta đã gặp mặt, kể ra trong đội ngũ cảnh sát vẫn còn những người tài xinh đẹp như này nhỉ, nếu không phải tận mắt chứng kiến, tôi cũng không dám tin.” Câu nói cuối cùng của anh ta là dành cho tôi, xem ra trí nhớ của anh ta khá tốt, hơn nữa còn rất nhanh mồm nhanh miệng. Tôi cũng tự biết rõ ngoại hình của mình, nhưng nghe anh ta khen, vẫn cảm thấy rất vui. Người như Trương Phàm ở nông thôn bơi lội tự do giống như cá gặp nước vậy, không ngờ lại vì chăm sóc cho em gái mà sống độc thân, thật là hiếm có.

Trương Phàm lại nói: “Chú, Mạch Dã sau khi biết được tin dữ của Trương Phương thì suốt ngày ốm đau bệnh tật, nằm bẹp trên giường lò không chịu dậy. Cậu ta sống một mình đơn chiếc, ở thôn Đại Oa này chỉ có mỗi cháu là người thân thích, hễ rảnh là cháu lại đến giúp cậu ấy nấu chút cơm, dọn dẹp phòng, không thì chú bảo cậu ta biết làm sao?” Câu nói này là để trả lời câu hỏi ban nãy của Lý Cường. Tôi nhớ lần trước đã được Lý Cường kể, Trương Phàm và Mạch Dã cùng hợp tác mở một gánh hát nhỏ, vừa là bạn vừa là người thân, quan hệ rất tốt, xem ra việc Trương Phương gặp nạn, không khiến cho hai người xảy ra hiềm khích.

Sau khi bước vào phòng, tôi trông thấy một bố cục chuẩn nông thôn. Sáp với góc tường phía Bắc là một chiếc giường lò to, dài 6 – 7m, đủ cho 10 người nằm ngủ mà vẫn thừa. Những người lớn lên ở miền Nam hẳn sẽ cảm thấy lạ lẫm và hiếu kỳ với chiếc giường lò của người miền Bắc chúng tôi, thực ra đó chỉ là nơi để người xưa sưởi ấm mà thôi. Một chiếc giường lò có mấy cái miệng lò, lửa sẽ được đốt trong miệng lò, khiến cho chiếc giường lò nóng rực, căn phòng cũng trở nên ấm áp. Những người nằm không quen giường lò, sau một đêm ngủ trên giường, không chỉ môi khô miệng khát, có người còn bị chảy má.u cam.

Mạch Dã nằm trên giường lò, sắc mặt có chút tiều tụy, vàng mắt, môi nhợt nhạt, bộ dạng rất yếu ớt. Thấy chúng tôi bước vào, lăn lộn bò dậy, nói: “Thanh tra Lý, mọi người ngồi đi cho ấm.” Lý Cường đáp: “Cậu đang bệnh tật thế, không phải ngồi dậy đâu, chúng tôi đến thăm một tí rồi về.”

Trong căn phòng mịt mù mùi khét của lông chim cháy và thịt kho, tôi khìn khịt mũi, hỏi: “Mùi gì vậy? Sao hắc thế.” Vu Ngân Bảo cũng tiếp lời: “Đúng thật, trên giường lò còn có người ốm, mùi này làm sao mà dưỡng bệnh được?” Trương Phàm có chút ngại ngùng bưng một đĩa đen ngòm đến trước mặt chúng tôi, nói: “Là mùi của cái này, ngửi thì thấy hắc, nhưng ăn lại rất thơm. Mọi người nếm thử miếng.” Tôi thấy cái thứ đó ủ rũ như một con gà con bị nướng cháy, sợ hãi đẩy cái đĩa ra, nói: “Các anh ăn bậy ăn bạ gì thế.” Trương Phàm giải thích: “Là chim sẻ, những đứa trẻ trưởng thành ở thôn chúng tôi đều thích món này, mùa đông tuyết rơi sẽ dựng một cái sàn ở sân, nếu may thì chỉ một buổi chiều có thể bắt được mười mấy hai mươi con, bỏ vào lò nướng, thơm phức, mấy món đồ nướng ngày nay làm sao sánh được với hương vị thuần túy này. Mấy ngày nay Mạch Dã ốm đau bệnh tật, không biết sao mà tôi lại nhớ ra món này, nên đã nướng mấy con cho cậu ấy ăn.” Lý Cường nói: “Các cậu lớn bằng này rồi, vẫn còn bày cái trò này, nếu muốn ăn thì rửa cho sạch sẽ rồi đổ dầu vào mà xào.” Trương Phàm đáp: “Xào không ngon bằng thế này, nguyên chất nguyên vị.” Nói đoạn, anh ta xé thịt chim sẻ, vừa xé vừa mút ngón tay, bên trong lộ ra lớp thịt hồng hào, hơi nóng và mùi thơm bốc lên nghi ngút. Trương Phàm dùng hai ngón tay để vặn, đưa đến trước mắt tôi, tôi né ra sau, chỉ vào Vu Ngân Bảo nói: “Đưa cho cậu ta ăn, mồm cậu ta khỏe lắm.”

Vu Ngân Bảo thật thà nhận lấy một cách không khách sáo, xé hai miếng thịt nhét vào mồm, mới nhai hai miếng, cặp mắt híp liền trợn trừng, miễn cưỡng nhìn thấy đồng tử, có thể thấy mức độ kinh ngạc của cậu ta. Cậu ta nuốt con chim sẻ vào bụng, nhồm nhoàm reo lên: “Ngon quá, đúng là sơn hào, ngon.” Mọi người nhìn thấy bộ dạng của cậu ta đều phá lên cười, Trương Phàm lại xé ra một con đưa cho cậu ta, Vu Ngân Bảo đưa tay ngăn lại, nói: “Đừng cám dỗ tôi nữa, anh không thấy sếp tôi đang đứng đây à? Thu vén cá nhân, sẽ bị coi là hủ bại đấy.” Trương Phàm cười, lại đưa khắp một vòng, nhưng mọi người đều xua tay.

Tôi không muốn chỉ cắm đầu vào ăn mà bỏ lỡ chính sự, liền hỏi Mạch Dã: “Anh cảm thấy thế nào? Đã đi gặp bác sĩ chưa?” Mạch Dã lắc đầu đáp: “Không cần gặp bác sĩ, tự tôi tôi biết. Không có cách nào, sinh ra đã yếu vậy rồi, mấy ngày nay tôi vừa lo lắng vừa sợ hãi, lại ngủ không ngon, lúc nào cũng canh cánh trong lòng, chỉ cần nghỉ ngơi mấy bữa là sẽ hết thôi, cơ thể cũng sẽ khỏe lại.” Tôi nghe anh ta nói chuyện thiếu trung khí (khí trong dạ dày, có tác dụng tiêu hóa thức ăn và dinh dưỡng trong cơ thể), lại thấy mắt anh ta nổi đầy mạch má.u, đúng bộ dạng thiếu ăn thiếu ngủ, cơ thể mệt mỏi bực bội, liền an ủi anh ta: “Mong anh cố nén đau thương, cuộc sống thì vẫn phải tiếp diễn.”

Thẩm Thư im lặng nãy giờ, tôi không đoán ra ý đồ của cậu ta, liền dừng lại nhìn cậu ấy. Thẩm Thư biết ý, bèn hỏi Mạch Dã: “Anh không có bố mẹ giúp đỡ, một mình xây căn nhà lớn thế này, chắc không dễ dàng nhỉ? Chúng tôi có thể đi tham quan một vòng không?” Mạch Dã ho hai tiếng, đáp: “Ở quê khó sưởi ấm, trừ căn phòng này ra, hai gian kia đều không nhóm lửa, nếu anh muốn xem thì cứ xem, nhưng lạnh lắm đấy.”

Chúng tôi bám theo Thẩm Thư đến hai gian còn lại để dạo một vòng, lạnh thật, không ấm hơn bên ngoài trời là bao, lúc nói chuyện thấy rõ hơi hà ra. Cả hai gian phòng này đều chỉ to bằng một nửa gian mà Mạch Dã nằm nghỉ, một gian là buồng ngủ nhỏ, có phân nửa chiếc giường lò, một mé giáp tường, mé còn lại dùng ván gỗ để chắn, vừa giống giường lò lại vừa giống giường đệm. Gian còn lại chất mấy đồ linh tinh, là một phòng kho. Gia cụ trong hai gian phòng này đều không nhiều, hiện lên khá rộng rãi, vừa nhìn là biết. Thẩm Thư hứng thú lượn một vòng, không ngớt lời khen bố cục và chất lượng kiến trúc của căn phòng. Trở về phòng ngủ của Mạch Dã, lại nói: “Hôm nay không có việc gì khác, chỉ là đến thăm anh chút thôi. Người đã đi rồi, không ai có thể níu lại được, người sống phải kiên cường lên, nếu sau này anh nhớ ra điều gì, cho rằng có liên quan tới Trương Phương, bất cứ lúc nào cũng có thể liên hệ với chúng tôi, 24/7 đều được.” Nói đoạn, đưa cho Mạch Dã tấm danh thiế.p, rồi lại nói với Trương Phàm: “Anh có tình hình gì mới cũng mau chóng liên hệ với chúng tôi, chúng ta cùng nhau cố gắng, tranh thủ thời gian sớm nhất để bắt được hung thủ về nhận tội.” Mạch Dã và Trương Phàm đều đồng ý, nhận lấy danh thiế.p, cẩn thận cất nó vào.

Khi chúng tôi cáo từ để ra về, Thẩm Thư bỗng nhiên nhớ ra, hỏi: “Mấy nay các anh ở nhà, có phát hiện ra ngoài bộ quần áo của Trương Phương, còn thiếu mất thứ gì hay không?” Mạch Dã đơ ra một hồi rồi đáp: “Không thiếu gì cả, hôm ấy cô ấy đã mặc bộ quần áo đó mà rời đi, những thứ khác đều còn đây.” Thẩm Thư gật đầu, không nói gì, quay lưng bước đi.

12.

Chiều hoàng hôn ngày 9 tháng 3 năm 2003. Trời quang.

Nhà của Lý Song Song.

Từ nhà Mạch Dã bước ra, rẽ một cái là đến cửa nhà của Lý Song Song. Chúng tôi đứng ở ngoài gọi gần nửa ngày mới thấy Lý Song Song hối hả chạy ra, nhưng lại không mở cửa, đứng cách cổng sắt hỏi: “Tranh tra Lý, trời lạnh thế này, sau mọi người lại đến đây? Ơ kìa,” Bà ta quay về phía tôi nói: “Đây không phải cái cô cảnh sát lần trước đã giúp minh oan cho tôi đó sao? Cô tên là…… Thục Tâm, xem đầu óc tôi kìa, lúc về tôi còn kể cho hàng xóm láng giềng nghe, một nhân vật vừa tài giỏi lại xinh đẹp như cảnh sát Thục Tâm đây, ở thôn chúng ta làm gì thấy được? Người tài đều tụ tập lên thành phố hết cả rồi.” Tôi được một lúc hai người khen ngợi, dù có tự mình biết mình chăng nữa cũng không tránh khỏi cảm thấy lâng lâng, giống như được đắm mình trong gió Xuân vậy, hình như người dân thôn Đại Oa, ai cũng nói ngon nói ngọt hết.

Lý Cường đứng trên tuyết, lạnh cóng cả chân, nói: “Mở cửa ra, cho chúng tôi vào nhà nói chuyện.” Lý Song Song đáp: “Ồ, không được đâu, chồng tôi không có nhà, đám đàn ông các anh xông vào phòng, người ta lại nói ra nói vào.” Lý Cường mất kiên nhẫn: “Cô ăn nói kiểu gì đấy? Đây đều là cảnh sát từ trên thành phố xuống, tìm cô để tìm hiểu tình hình, làm gì còn suy nghĩ nào khác, ai mà thèm một phụ nữ hết thời như cô?” Thẩm Thư có lẽ nghe không lọt tai, xua tay nói: “Bỏ đi bỏ đi, chúng tôi không vào nữa, để Thục Tâm và bà ấy nói chuyện, phụ nữ với nhau sẽ dễ nói chuyện hơn.” Tôi nghe ra ý của Thẩm Thư, liền hỏi Lý Song Song: “Một mình tôi vào nhà nói chuyện với bác, được chứ?” Lý Song Song tỏ vẻ trang trọng gật đầu, mở cổng sắt, cho tôi vào trong.

Vào trong phòng, Lý Song Song vội mời tôi ngồi xuống, lại rót một cốc trà ấm, nói: “Thanh tra Thục Tâm, cô đừng trách tôi, tôi biết các cô đến tìm tôi vì vụ án của Trương Phương, tôi không cho bọn họ vào, vì mấy lời này không tiện nói với cánh đàn ông.” Tôi nhớ lại câu nói của Lý Cường rằng quan hệ của Lý Song Song và Trương Phương rất tốt, bèn hỏi: “Bác đã sớm có điều muốn nói với cảnh sát có đúng không?” Lý Song Song vỗ tay vào đùi, đáp: “Đúng là chỉ có cô hiểu tôi, lúc còn sống Trương Phương và tôi thân nhau như hai chị em ruột vậy, cái chế.t của em ấy khiến tôi rất đau lòng, mấy ngày nay đều không ngủ được, hễ nhắm mắt là nhớ lại cảnh tượng thân thiết của hai chị em trước đây. Nếu không báo thù rửa hận cho em ấy, cả đời này tôi cũng không cam lòng.” Tôi mới hỏi: “Mấy người ở Sở Cảnh sát huyện đồn trú tại thôn Đại Oa gần nửa tháng nay rồi, sao bác không nói với họ?” Lý Song Song lắc đầu đáp: “Làm gì có ai đến hỏi tôi, với cả, việc này có liên quan đến danh tiếng của Trương Phương, tôi không thể tùy tiện nói cho người khác biết được.”

Tôi có chút kỳ quái: “Sao lại còn liên quan đến danh tiếng của Trương Phương? Nhẽ nào cô ấy……”, Lý Song Song vội lấy tay chặn miệng tôi: “Đừng có đoán bừa, tôi nói cho cô hay, gần một năm nay kể từ khi Trương Phương kết hôn, chưa từng ngủ chung phòng với Mạch Dã, đến lúc chế.t vẫn giữ trinh tiết.” Câu nói này như tiếng sét đánh ngang tai, tôi vội đặt cốc trà trên tay xuống, hỏi: “Sao bác lại biết chuyện này, chính miệng cô ấy nói với bác ư?” Lý Song Song lén lút nhìn ra ngoài, làm ra vẻ chỉ sợ bức vách có tai, sáp lại tai tôi nói khẽ: “Cái khoản ấy của Mạch Dã không được tốt, chỉ là vợ chồng với Trương Phương trên danh nghĩa thôi, chứ không phải vợ chồng thực. Hai người họ tại sao cãi nhau suốt ngày, chính là vì lẽ đó. Trương Phương kết hôn được nửa năm là muốn ly hôn, nhưng mà Mạch Dã không đồng ý, bảo anh ta đi khám nhưng anh ta không chịu, cứ bắt vợ mình phải thủ tiết. Khoảng thời gian đó Trương Phương bị trầm cảm, lại không có ai để tâm sự, nên mới suốt ngày chạy đến nhà tôi.”

Tôi vẫn cảm thấy khó tin, cố tìm cách chứng thực: “Các cô nương bây giờ đến khi kết hôn mà vẫn còn là trinh nữ, hiếm như lông phượng sừng lân vậy. Cứ cho là Mạch Dã yếu đi, không nhẽ trước khi kết hôn Trương Phương chưa từng yêu ai? Chưa từng vượt rào?” Lý Song Song tấm tắc đáp: “Người khác không dám nói, còn Trương Phương, tôi chứng kiến em ấy lớn lên, em ấy yêu ai nhẽ nào lại qua được mắt tôi? Em ấy tài năng xuất chúng, nên yêu cầu cũng cao, xấu quá không được, bất tài không được, già quá không được, nhỏ quá cũng không được, rất kén cá chọn canh, chắc chắn trước khi kết hôn chưa từng yêu ai. Nghe nói Mạch Dã là một nhân tài ở thôn Đại Oa, đứng chung với Trương Phương cũng gọi là trai tài gái sắc, nhưng ai mà biết được chữ ngờ?”

Tôi định thần trở lại, hỏi: “Bác để tôi vào nhà, là muốn nói những lời này?” Lý Song Song trợn tròn mắt: “Thế này vẫn chưa đủ sao? Chuyện này không phải rành rành ra đó ư, hung thủ giế.t hại Trương Phương chính là Mạch Dã, Trương Phương đòi ly hôn, Mạch Dã không chịu, lại sợ cô ấy đem chuyện xấu của mình để lộ ra bên ngoài, nên đã ra tay giế.t cô ấy. Rồi lại đem giấu xá.c vào lò gạch, tụt quần th.i th.ể xuống, là để giăng mê hồn trận đó. Mấy tay cảnh sát huyện đã bị mắc lừa rồi, tra cái này tra cái kia, mà lại không điều tra Mạch Dã, cô bảo sao bọn họ lại dễ bị lừa thế nhỉ.” Tôi nghĩ bụng, lúc Trương Phương bị sát hại thì Mạch Dã vẫn còn bị nhốt ở đồn kia kìa, muốn giế.t Trương Phương, trừ phi anh ta biết thuật phân thân, nhưng những lời này không nhất thiết phải kể cho Lý Song Song nghe. Tôi đáp: “Lúc Trương Phương và bác trò chuyện với nhau, cô ấy có kể cho bác nghe về người tình nào khác không, nhẽ nào cô ta chịu bỏ phí tuổi thanh xuân với một người chồng bất lực?” Đây là câu hỏi mà tôi cứ giữ mãi trong lòng, tôi luôn có cảm giác vụ án này có liên quan đến tình yêu trai gái.

Lý Song Song đáp: “Thực sự không có, cái này tôi dám chắc hai trăm phần trăm. Không phải vì Trương Phương giữ gìn trinh tiết, mà quả thực là yêu cầu của em ấy quá cao, không ưng ý người nào cả. Nếu tính ra, ở trong cái thôn này chỉ có Mạch Dã và Trương Phàm được coi là hai nhân tài cao nhất rồi. Một người là anh ruột của Trương Phương, một người là tay chồng bất lực của em ấy, em ấy còn biết cặp bồ với ai nữa đây? Tôi cứ khuyên em ấy lên thành phố suốt, em ấy cũng có chút động lòng, nhưng vẫn chưa kịp thực hiện thì đã xảy ra chuyện rồi.” Nói đoạn, khóe mắt của Lý Song Song cũng đỏ au, xem ra bà ấy thực sự đau lòng vì Trương Phương.

Tôi nói: “Những gì bác cung cấp rất quan trọng, câu chuyện hôm nay chỉ có hai chúng ta biết thôi, trước khi vụ án được phá, bác đừng nói cho người thứ ba biết.” Lý Song Song đáp: “Tôi còn nói được cho ai? Những lời này được giấu kín trong lòng tôi từ lâu rồi, nếu cô mà không đến thì tôi cũng chẳng nói cho ai.” Tôi để lại số điện thoại cho bà ấy, dặn dò bà ấy một khi có chuyện gì là phải lập tức báo lại cho tôi. Nói xong, tôi đi ra khỏi cửa.

13.

Sáng ngày 11 tháng 3 năm 2003. Tuyết nhỏ.

Đồn trú của tổ chuyên án vụ th.i th.ể nữ lò gạch, thôn Đại Oa.

Hai ngày liên tiếp đi tra hỏi, thu thập được rất nhiều manh mối, nhiều ý kiến khác nhau, có người nghi ngờ Mạch Dã, có người nói là do mấy tên vô lại trong thôn làm, cũng có người hùa theo lối tư duy của Sở Cảnh sát huyện, cho rằng người chăn dê Quan Thượng Võ là hung thủ. Đa số manh mối đều không có giá trị thực tế, nhiều cái thậm chí nghe còn có vẻ là ý kiến chủ quan của người trong thôn.

Manh mối mà Lý Song Song cung cấp cho tôi là đáng chú trọng nhất, cũng khiến cho người ta khó lý giải nhất. Chính tay tôi đã giám định cái xá.c trong lò gạch, màng trinh bên trong â.m đạ.o của nạn nhân đã bị rách từ lâu, hơn nữa không phải do bị thương khi vận động, mà do quan hệ tìn.h dụ.c. Điều này không trùng khớp với cách nói Trương Phương đến lúc chế.t vẫn là gái còn trinh. Dù cho có giống với suy đoán của một số người, rằng Trương Phương trong mười mấy ngày mất tích trước khi chế.t đã bị cưỡng hiế.p, thì những vết thương tạo thành phải còn mới, hoặc bị rách mới đúng.

Sau khi tôi và Thẩm Thư tiến hành phân tích lời khai của Lý Song Song, đã tổng kết ra mấy loại khả năng sau: Một là Lý Song Song đang nói dối, khả năng này rất thấp, bởi chúng tôi không nghĩ ra lý do mà Lý Song Song phải nói dối cảnh sát là gì, trừ phi bà ta hoặc người thân của bà ta tham gia vào việc sát hại Trương Phương, nên mới cố ý đánh lạc hướng cảnh sát; Hai là Trương Phương khi còn sống đã nói dối Lý Song Song, nếu như vậy, rất có thể trước khi kết hôn đã có một người tình bí ẩn, hoặc sau khi kết hôn vẫn qua lại thân mật, đương nhiên, ở cái thôn bé như lỗ mũi này, với phạm vi sinh hoạt của Trương Phương khi còn sống mà nói, loại khả năng này cũng rất thấp; Ba là th.i th.ể trong lò gạch không phải của Trương Phương, mặt người đó đã bị tổn hại nghiêm trọng, mà phần thân dưới lại không bị tổn thương, rất khó để nói đó không phải là hành vi cố ý của con người, tạo ra cảnh tượng giả rằng Trương Phương đã chế.t, nhưng mà những đặc trưng th.i th.ể mà Trương Phàm đã chỉ ra, như vết bớt dưới ngực, vết sẹo ở xương bả vai, đều trùng khớp, tỉ lệ trùng hợp gần như bằng không; Khả năng thứ tư, nạn nhân quả thực không phải Trương Phương, Trương Phương vì muốn thoát khỏi cuộc hôn nhân bất hạnh với Mạch Dã, sớm đã trốn đi nơi khác, Trương Phàm cố ý nhận sai nạn nhân, khiến cho Mạch Dã mất hết hy vọng, đồng thời giúp cho em gái mình thay hình đổi dạng từ đây, đón chào một cuộc sống mới, nhưng mà, nạn nhân là ai? Tại sao Trương Phàm lại có thể nói ra chính xá.c đặc trưng cơ thể của người đó?

……

Càng đi sâu phân tích, càng cảm thấy vụ án phức tạp, mạch suy nghĩ loạn cả lên, có thể vạch ra tận 10 khả năng. Trong đó có vài cái khi phân tích thì thấy hoang đường hết sức, nhưng cũng không hẳn là hoàn toàn bất hợp lý. Nếu lần theo từng mạch tư duy này để điều tra, e là đợi khi Đông qua Xuân đến, tuyết tan mây tạnh, chúng tôi cũng không rời khỏi được thôn Đại Oa.

Chính lúc tôi và Thẩm Thư cảm thấy vụ án trăm mối tơ chằng, không biết nên bắt đầu từ đâu thì Vu Ngân Bảo đạp cửa xông vào, thở gấp nói: “Sở Cảnh sát huyện Đại Oa đã bắt người chăn dê đi rồi, nói vụ án đã được phá, người chăn dê chính là hung thủ.”

Thẩm Thư mấy ngày nay bận đi công tác, ít tiếp xúc với người ở Sở huyện, với cả bị ngăn cách bởi lối tư duy làm án không thống nhất của hai bên, cũng không thể tiến hành trao đổi sâu. Nghe Vu Ngân Bảo nói vậy, Thẩm Thư cũng cảm thấy ngạc nhiên, vội đến tìm Đội trưởng Trương Thao Quang của Đội cảnh sát hình sự để tìm hiểu tình hình.

Trương Thao Quang nét mặt hồng hào, hẳn là cảm xúc đang dâng trào, thấy sự nhiệt tình khác thường của Thẩm Thư, sau khi mời ngồi lại rót trà, còn đưa thêm một điếu thuốc, nói: “Thẩm đội trưởng, tôi đang định đến chỗ anh để báo cáo, vụ án đã được phá rồi, người chăn dê Quan Thượng Võ đã nhận tội, người là do ông ta giế.t, đầu đuôi ngọn ngành, đều đã viết ra giấy, còn có cả chữ ký và dấu vân tay của ông ta. Thứ chó má này, ra tay thật tàn độc, tình tiết vô cùng ác liệt, e là khó thoát khỏi án tử hình.”

Thẩm Thư xua tay từ chối điếu thuốc mà Trương Thao Quang mời, nhận lấy tờ khai của Quan Thượng Võ, tổng cộng hơn 5 trang, hơn nữa người dự thẩm, người ghi chép, thời gian, địa điểm và những văn kiện quan trọng, đều phù hợp quy phạm. Nội dung ghi chép rõ ràng, ghi lại toàn bộ quá trình Quan Thượng Võ giam giữ, cưỡng hiế.p, giế.t hại, giấu xá.c, vứt xá.c và báo án, mạch lạc rõ ràng, người nào không biết chuyện mà nhìn vào bản ghi chép này, nhất định sẽ tin sái cổ.

Theo lời khai của Quan Thượng Võ, ông ta sớm đã thèm muốn vẻ đẹp của Trương Phương, chỉ tội chưa có cơ hội để tiếp cận. Hôm đó chăn cừu trở về, thấy Trương Phương đang ở gần nhà ông ta, liền lại gần bắt chuyện. Trương Phương không những không quan tâm, mà còn quắc mắc coi khinh. Trong cơn tức giận, nhân lúc xung quanh không có người, Quan Thượng Võ đã cưỡng chế rồi bắt Trương Phương về nhà ông ta, sau khi thực hiện hành vi cưỡng hiế.p xong, ông ta đã nhốt cô ấy lại, trong 10 ngày tiếp theo nhiều lần hành hạ cô ấy, sau đó tin đồn ngày một lớn, Quan Thượng Võ lo sợ hành vi phạm tội của mình bị bại lộ, bèn nhẫn tâm siết cổ nạn nhân đến chế.t, nhân lúc trời khuya thanh vắng đã vứt th.i th.ể vào lò gạch. Sáng sớm hôm sau, ông ta cố ý giả bộ trong lúc lên núi chăn dê phát hiện ra th.i th.ể rồi báo án, mục đích là để người khác không nghi ngờ mình.

Thẩm Thư đọc qua bản lời khai này, im lặng không nói gì. Bản lời khai này từ đầu đến cuối, giống như một câu chuyện đã được sắp đặt từ trước, ngòi bút hoàn chỉnh, kết cấu hoàn thiện, chi tiết tường tận, khiến người đọc phải mãn nhãn, cứ cho là Quan Thượng Võ chủ động trình báo, thì những chi tiết bên trong cũng không thể sinh động đến vậy.

Đương nhiên, bản lời khai này cũng có rất nhiều lỗ hổng, lấy đại một ví dụ về lỗ hổng là đã có thể làm giảm tính chân thực của bản lời khai này rồi. Người chăn dê Quan Thượng Võ thân hình gầy còm, chiều cao chưa đến 1m6, cân nặng mới có hơn 50kg, còn Trương Phương lại cao hơn ông ta những 5cm, ông ta làm cách nào để ngay lập tức khống chế Trương Phương mà không bị ai phát hiện, đồng thời lôi cô ấy về nhà mình? Quan Thượng Võ do cuộc sống nghèo khó, lôi thôi lếch thếch nên mới không lấy được vợ, làm sao có thể bắt nhốt Trương Phương suốt mười mấy ngày, lại còn giữ cho bộ quần áo duy nhất của cô ấy trông như mới? Trong lời khai, ông ta nói đã nhiều lần hành hạ Trương Phương, nhưng trên th.i th.ể Trương Phương ngoài vết thương ở cổ ra thì không có bất kì một vết thương ngoài nào khác, â.m đạ.o không có vết rách, không có tin.h dịc.h sót lại, những thứ đó giải thích thế nào đây? Quan Thượng Võ nghèo rớt mồng tơi, nhà chỉ có một gian, ông ta dùng công cụ nào mới có thể đưa một th.i th.ể nặng hơn 50kg lên lưng chừng núi được chứ?

Bàn tay cầm lấy bản lời khai của Thẩm Thư bỗng khẽ run lên, không biết do tức giận hay đau lòng. Lúc đó, tôi vẫn chưa đọc hiểu được tâm lý của cậu ta, mãi nhiều năm sau, chúng tôi đã cùng nhau trải qua không biết bao nhiêu trắc trở và thử thách mới đủ để hình thành sự tín nhiệm, khi đã có thể bộc bạch với nhau những góc khuất nhu nhược nhất trong nội tâm, tôi mới hiểu được cậu ấy. Thẩm Thư là một người theo chủ nghĩa lý tưởng, cậu ấy chín chắn, vững vàng, nhìn xa trông rộng, có thể gánh vác trách nhiệm, nhưng sâu thẳm bên trong cậu ấy, luôn có một nét ngô nghê, trong sáng của đứa trẻ, cậu ta luôn tin rằng bản tính của con người là lương thiện, khát vọng thế giới này là một đường thẳng, khát vọng mối quan hệ giữa người với người, người với thiên nhiên, người với xã hội trở nên đơn giản, trong sạch, trắng đen rõ ràng. Cậu ta luôn mang trong mình thứ lý tưởng không thực tế ấy, năm lần bảy lượt vấp phải trắc trở trong cuộc sống hiện thực, nhiều lần bị ngã sứt đầu mẻ trán, cậu ta chỉ biết chôn dấu lý tưởng ấy vào một nơi thật sâu, cậu ta đã học được cách thỏa hiệp, học được cách buông bỏ, lấy nhu khắc cương. Nhưng mà, mỗi lần gặp phải hiện tượng ghê tởm và thối nát trong xã hội, trái tim cậu ta vẫn đớn đau, vẫn sẽ khóc thương cho kẻ yếu, chỉ là, những giọt nước mắt ấy không chảy trên gương mặt.

Bản lời khai đủ để đưa Quan Thượng Võ vào chỗ chế.t, đủ để đưa Trương Thao Quang thăng quan tiến chức này, đang nằm trên tay Thẩm Thư. Nhưng cậu ta không quá lo lắng, bởi cậu biết mình đủ sức để lật ngược thế cờ, điều khiến cậu ta cảm thấy tức giận và khó chịu, là thái độ làm án của Trương Thao Quang. Một người, vì lợi ích của bản thân, nếu điều đó là cần thiết, sẽ không nương tay mà hủy hoại một sinh mệnh vô tội. Đây không phải hiện tượng hiếm gặp, mà là sự phản ánh nhân tính một cách chân thực, lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội, đều không thể ngăn cản được. Thành phố Sở Nguyên có biết bao kẻ giống như Trương Thao Quang? Bên ngoài thành phố Sở Nguyên thì sao? Đứng trước hiện thực tàn khốc, chỉ một mình mình, thật nhỏ bé và bất lực.

Thế giới này, chưa từng được cứu vãn bởi anh hùng.

Thẩm Thư che dấu cảm xúc, hỏi: “Quan Thượng Võ hiện đang ở đâu?” Trương Thao Quang đáp: “Đã được đưa lên Sở huyện rồi, ông ta là tội phạm nguy hiểm, bắt buộc phải giam giữ cẩn mật. Thẩm đội trưởng, tối nay rảnh, chúng ta đến quán rượu Phong Thu để thư giãn đi, ở trong thôn không có rượu mồi ngon, gà với vịt ở quán đó cũng được. Kể ra vụ án này anh có công đầu, nếu không có sự chỉ đạo giám sát tận tình của lãnh đạo Sở thành phố, làm sao mà vụ án được phá nhanh đến vậy.”

Thẩm Thư đặt bản lời khai xuống, đứng dậy nói: “Án được phá là chuyện tốt, nhưng chứng cứ vẫn phải được xá.c thực, cần phải được cân nhắc. Giam giữ nạn nhân gần nửa tháng, kiểu gì ở nhà Quan Thượng Võ chả có dấu vết? Hung khí gây án đã tìm ra chưa? Quan Thượng Võ nghèo rớt mồng tơi, ông ta dùng công cụ gì để vứt xá.c? Chở một cái xá.c lên lưng chừng núi, ông ta không thể nào lại cõng nó trên lưng chứ? Dù cho có ra tòa, chỉ có lời khai cũng không đủ. Tối nay đừng thư giãn nữa, cảm ơn ý tốt của Trương đội trưởng, tôi sẽ về bàn bạc với đồng nghiệp, xem có phải trở về Sở ngay trong đêm không.”

Thẩm Thư vẫy tay, đi ra ngoài trước khi Trương Thao Quang kịp mở miệng.

14.

Sáng ngày 13 tháng 3 năm 2003. Trời quang.

Tại nhà của người chăn dê Quan Thượng Võ.

Sau khi Sở Cảnh sát huyện Đại Oa công bố vụ án đã được phá, những người trong ngành như chúng tôi rơi vào tình thế khó xử, tiếp tục ở lại không chỉ vô cớ xuất binh, mà còn trở thành trò cười cho Trương Thao Quang và những kẻ khác. Nhưng nếu vì thế mà rời đi, bất luận thế nào cũng không cam tâm, giương mắt nhìn một vụ án oan, người có lương tri sẽ không thể nào dung thứ.

Dù sao thì Trương Thao Quang cũng vẫn kính nể Thẩm Thư, nhất là cảm thấy bất an với những điểm tình nghi mà Thẩm Thư đề xuất. Có lẽ anh ta cho rằng mấy người ở Sở cảnh sát chẳng qua là muốn cướp công, lấy lại chút thể diện, sau khi đưa Quan Thượng Võ trở về huyện, bản thân anh ta không lập tức rời đi, mà lưu lại thôn Đại Oa, lấy danh nghĩa điều tra bổ sung, thu thập chứng cứ, nhưng thực ra là dồn tinh lực chính lên mấy người chúng tôi, không ngừng thề thốt, bảo đảm sẽ để “lãnh đạo Sở thành phố” lập công đầu, muốn qua đó để lôi kéo chúng tôi về chung một chiến tuyến với anh ta.

Đó là phong cách làm người và phương thức làm việc mà anh ta đã được nghe quen tai, nhìn quen mắt từ nhỏ, nếu bắt anh ta thay đổi góc độ tư duy vấn đề, e còn khó hơn bắc thăng lên trời.

Thẩm Thư mượn gió bẻ măng, lấy danh nghĩa bổ sung chứng cứ, lưu lại ở thôn Đại Oa thêm hai ngày. Nhưng khi chúng tôi không ôm bất cứ một hy vọng nào để khám xét nhà của Quan Thượng Võ, thì lại có một phát hiện ngoài ý muốn.

Nhà của Quan Thượng Võ là một căn nhà gạch bùn, là căn nhà gạch bùn duy nhất trong cả thôn Đại Oa, tọa lạc dưới chân núi. Căn nhà gạch bùn lụp xụp rách nát, mái nhà bị sập mất một nửa, được chống đỡ bởi mấy cái cột gỗ. Cửa nhà không khóa, mở he hé, nghe nói Quan Thượng Võ đến khóa nhà cũng không có mà dùng. Mở cửa vào phòng, một mùi ẩm thấp mục nát xộc thẳng vào mũi, mái rơm trên nóc nhà gần như chạm vào tóc, tạo cho người ta cảm giác bí bách ức chế. Căn nhà được chia làm hai gian, gian ngoài là nhà bếp, nồi niêu xoong chảo để không nguội ngắt, xem ra đã nhiều ngày không nấu nướng. Trên bàn bếp có một thứ đen thui to bằng nắm tay, mọc đầy rong rêu, không nhìn ra bộ dạng ban đầu, chắc là màn thầu, bánh ngô hay một món ăn tương tự nào đấy.

Bước vào bên trong, trước mặt là một cái giường lò, trên giường lò được giải chiếu, mấy chiếc ga trải trường đen đúa nhớp nháp vứt lộn xộn. Trên nền nhà có hai chiếc hòm, một cái ghế đã bị tróc sơn, trông vô cùng rách rưới. Ngoài ra không còn một gia cụ nào khác. Nếu không phải tận mắt chứng kiến, tôi gần như sẽ không tin, ở cái thế kỉ 21 này, vẫn còn có người ăn lông ở lỗ như người nguyên thủy thế này.

Tuy tôi và Thẩm Thư đều cho rằng Quan Thượng Võ không phải hung thủ, nhưng trong quá trình khám xét căn nhà chúng tôi vẫn làm hết sức tỉ mỉ toàn diện, không dám để lọt một manh mối. Căn nhà không có dấu hiệu lau chùi và dọn dẹp, nếu quả thực Trương Phương bị giam giữ ở đây, bất luận thế nào cũng sẽ để lại một chút manh mối.

Khi tôi lật cái chiếu ở trên chiếc giường lò lên, bụi bay mù mịt, mấy con sâu ẩn mình dưới chiếu bị dọa cho bò tán loạn. Những con sâu ấy to béo, da đỏ hồng hào, khiến tôi nổi hết cả da gà. Đang định đặt cái chiếu trở lại chỗ cũ, bỗng nhiên phát hiện ở khe chiếu có mấy sợi tóc dài, áng chừng khoảng hơn 30cm, là tóc của phụ nữ.

Đã từng có phụ nữ nằm nghỉ trên chiếc giường lò nhà Quan Thượng Võ.

Nếu đặt vào nhà khác, mấy sợi tóc dài trên chiếu, không đáng để mà hốt hoảng ngạc nhiên, có thể là của chủ nhà nữ, nếu không có chủ nhà nữ, có thể là người thân hoặc khách đến chơi nhà để lại. Nhưng mà, ở nhà Quan Thượng Võ, phát hiện này cần phải được xem xét thận trọng.

Quan Thượng Võ không vợ, không con gái, không người thân, không bạn bè. Người trong thôn xa lánh, đến đàn ông cũng không tới nhà ông ấy để chơi, phụ nữ lại càng không dám bén mảng. Cuộc sống của ông ấy cô đơn và vô vị, giống cái ở bên cạnh ông ta chỉ có mấy con dê cái mà ông ấy chăn thả.

Vậy sợi tóc dài trên giường ông ta là của ai?

Phát hiện này đã kích động tôi, sau đó tôi đã lục tung căn phòng ốc sơ sài này lên, đến cả những góc khuất và bẩn thỉu nhất cũng không bỏ qua. Kết quả, ở trong một cái hòm, giữa đống quần áo, mũ mão, giày dép bừa bộn, tôi tìm thấy một chiếc quần lót nữ nhăn nhúm, là một chiếc quần lót được may bằng sợi nhân tạo có in hình hoa mẫu đơn.

Thẩm Thư và Trương Thao Quang đi cùng tôi đều tròn mắt. Điểm khác biệt là, trong ánh mắt của Thẩm Thư là sự kinh ngạc và không ngờ tới, còn trong ánh mắt của Trương Thao Quang đong đầy sự hưng phấn và đắc ý.

Đây có thể coi là bằng chứng Quan Thượng Võ đã bắt giữ Trương Phương hay không?

“Đây không phải quần lót của Trương Phương,” Sau khi rời khỏi nhà Quan Thượng Võ, tôi và Thẩm Thư, Vu Ngân Bảo ngồi cùng trên một chiếc xe, Trương Thao Quang lái xe bám theo sau, tôi nói với Thẩm Thư lúc này đang trầm ngâm suy nghĩ: “Tôi đã giám định qua th.i th.ể của Trương Phương, cô ấy là một người phụ nữ rất chú trọng đến việc ăn mặc, từ trong ra ngoài đều rất thời thượng, gu thời trang không tầm thường. Còn chiếc quần lót kia là loại một tệ một cái bán đầy ngoài chợ, tôi không nghĩ là một người đẹp như Trương Phương lại mặc chiếc quần lót rẻ tiền đến thế.”

Thẩm Thư đáp: “Tôi cũng không cho là của Trương Phương, nhưng mà, người phụ nữ đã xuất hiện ở nhà Quan Thượng Võ là ai mới được?”

Tôi không trả lời câu hỏi của Thẩm Thư, lại nhắc nhở cậu ta rằng: “Mấy sợi tóc trên chiếu lại rất giống của Trương Phương, độ dài phù hợp, chất tóc cũng tương đồng. Lúc tôi giám định th.i th.ể Trương Phương, đã để ý tới tóc của cô ấy, tóc đen óng mượt, tóc phụ nữ hiện nay không hấp thì nhuộm, chất tóc tự nhiên hoàn hảo như thế, rất hiếm gặp.”

Lông mày của Thẩm Thư cau lại, không nói gì.

Lúc này điện thoại của tôi bỗng đổ chuông, nhấc máy, một giọng nữ thấp trầm và bí hiểm truyền đến từ đầu dây bên kia: “Là thanh tra Thục Tâm có phải không?” Cả thế giới này, chỉ có một người duy nhất gọi tôi như vậy, tôi đáp: “Bác là Lý Song Song?” Giọng của đối phương hạ rất thấp, phải cực kỳ chú ý mới có thể nghe rõ được: “Là tôi đây, cô đừng gọi tên tôi, cẩn thận bức vách có tai.” Tôi nghĩ, sao bà ta phải cẩn thận như biệt động nằm vùng thế nhỉ, đây có phải khu bị địch chiếm đâu, nhưng vì nghĩ cho cảm xúc của bà ấy, tôi cũng hạ thấp giọng nói: “Bác có chuyện gì thì nói đi, đảm bảo không có ai nghe đâu.”

Lý Song Song im lặng mất mấy giây, mới đáp: “Tôi có một chuyện hết sức quan trọng muốn phản ánh lại với cô. Trong nhà Mạch Dã thời gian gần đây không bình thường.” Bà ta có một đặc điểm khi kể lại chuyện cho người khác, không bao giờ chịu nói một lèo, cố ý nhử người nghe, có lẽ do nghe nhiều “Bình Thư Liên Bá” (một chương trình truyền hình) nên mới có tật xấu này, tôi không thể không vào vai phụ họa: “Có gì bất thường?” “Mấy ngày liền rồi, cứ đến nửa đêm, nhà cậu ta lại phát ra tiếng hét, nghe rất đáng sợ, như là có ma vậy.” Tôi tiếp tục vào vai: “Là tiếng của Mạch Dã ư?” “Không phải cậu ta thì là của ai, âm thanh ấy vừa giòn vừa vang, cả thôn Đại Oa chỉ có một, nếu không phải cái cổ họng của cậu ta, thì hai nhà chúng tôi cách nhau cả chục mét thế, làm sao mà nghe thấy được.”

Tôi nghĩ, cổ họng của Mạch Dã vừa sắc vừa vang, hát giọng nữ, hét lên giữa lúc đêm khuya thanh vắng, quả thực có chút đáng sợ, bèn hỏi: “Anh ta kêu lên thế nào, bác có nghe rõ không?” Lý Song Song đáp: “Cứ hét a a, có lúc còn khóc ê a, như đang hát kịch vậy, hình như còn nói gì đó nữa, nhưng tôi không nghe rõ.”

Tôi nghĩ bụng chuyện này cũng không có gì to tát, vợ của Mạch Dã bị người ta giế.t chế.t, anh ta lại là một người nho nhã yếu đuối, đa sầu đa cảm, đêm hôm bị cơn ác mộng làm cho tỉnh giấc rồi hét lên vài câu cũng là phản ứng bình thường, nếu anh ta ngủ ngon lành đến tận sáng hôm sau mới gọi là bất thường. Ở đầu dây bên kia, Lý Song Song lại nói: “Thanh tra Thục Tâm, tôi cúp máy đây, cô đừng nói cho ai biết là tôi gọi điện cho cô, tuyệt đối đừng nói.” Tôi còn chưa kịp nói việc giữ bí mật hộ nhân chứng là tố chất cơ bản và yêu cầu kỷ luật của cảnh sát thì bà ta đã dập máy.

Tôi truyền đạt lại nội dung cuộc gọi cho Thẩm Thư, cậu ta nghe xong cười: “E là áp lực của Mạch Dã rất lớn, chúng ta đến thăm anh ta xem sao.”

15.

Chiều ngày 13 tháng 3 năm 2003. Trời quang.

Tại nhà Mạch Dã.

Đứng ngoài cửa gọi một hồi, Mạch Dã liền loạng choạng chạy ra mở cửa, miệng nói: “Nhìn qua cửa sổ thấy một chiếc xe đang chạy về phía này, tôi liền đoán là các anh, quả nhiên không sai. Anh nói xem, việc trên đời thật là trùng hợp, tôi đang tính mời các anh đến nhà dùng bữa thì các anh đã đến cửa rồi, lại không thiếu một người, vừa hay đều là những người tôi định mời, dù thế nào thì hôm nay mọi người phải ở lại ăn tối rồi mới được đi đấy.”

Tôi nghĩ bụng, người thôn Đại Oa ai cũng nói ngon nói ngọt, như bôi mật ong ở miệng vậy. Nhìn thấy sắc mặt xám xịt, hai mắt thâm quầng, râu ria lởm xởm, bộ dạng tiều tụy của Mạch Dã, tôi liền nói: “3 kỷ luật 10 chú ý, không lấy cây kim sợi chỉ của người dân, anh không định để chúng tôi vi phạm đó chứ? Lại nói, bây giờ anh ốm đau thế này, chúng tôi cũng không nỡ làm anh phải chịu mệt mỏi.” Mạch Dã có chút ngại ngùng ôm mặt, ủ rũ đáp: “Mấy ngày nay cứ nhắm mắt lại là đầu óc toàn hình bóng của Trương Phương, trong mơ lúc thì thấy cô ấy bị người ta giế.t, lúc thì thấy tôi bị người ta giế.t, tỉnh dậy tim đập thình thịch, như muốn nhảy ra khỏi cổ họng vậy.” Câu nói vô tâm của tôi, đã khơi dậy nỗi đau trong lòng anh ta, chỉ đành thở dài, không biết nên an ủi anh ta ra sao.

Thẩm Thư tiếp lời, nói: “Hôm nay chúng tôi đến thôn Đại Oa để điều tra, vừa hay đi qua nhà anh nên mới ghé vào thăm. Vụ án này đã điều tra từ rất lâu, đến giờ vẫn chưa thể đưa cho anh một câu trả lời thỏa đáng, là do chúng tôi đã làm chưa tận lực.” Mạch Dã đáp: “Anh nói gì thế, thời tiết giá rét thế này, các anh đến thôn đã chịu không ít vất vả, tôi cảm kích còn không hết. Mau vào trong nhà ngồi đi.”

Mở cửa vào phòng, một luồng khí ấm ập thẳng vào mặt. Ngọn lửa trong lò sưởi đang cháy bập bùng, không khí Xuân tràn ngập khắp phòng. Trong làn khói lửa vẫn mang máng ngửi thấy mùi lông và mùi protein cháy, nhìn lên mặt bếp, quả nhiên có một con chim sẻ cháy đen thui, vẫn đang bốc khói nghi ngút. Tôi nói: “Mạch Dã, anh ở nhà nghỉ ngơi có mấy ngày mà chim sẻ ở thôn Đại Oa này đã bị ăn sạch rồi.” Mạch Dã bĩu môi cười gượng, đáp: “Tôi cũng không hay ăn món này, trời đông giá rét, chim sẻ cũng khó bắt, vừa hay bắt được mấy con thì mọi người đến.” Đây dù sau cũng không phải chuyện gì to tát, Mạch Dã lại là diễn viên nghiệp dư, bèn dùng một câu thoại kịch để lấp liếm cho qua: “Ăn sống uống tanh, cũng không ngăn được cái bụng thơ văn.”

Nhà của Mạch Dã được dọn dẹp sạch sẽ, mặt giường được trải một tấm nệm màu tím nhạt, bên trên được thêu hình những đàn hươu sao đang nô đùa kiếm ăn trên bãi cỏ, vừa có hơi thở hoang dã, lại không kém phần thời thượng. Chúng tôi ngồi lên chiếc ghế so-fa góc chữ L, Mạch Dã bận chạy ra chạy vào để rót nước pha trà, còn tôi thì bận ngăn anh ta lại, nói: “Cơ thể anh vẫn chưa hồi phục, cứ để đấy chúng tôi tự làm.” Mấy người nói chuyện câu được câu chăng một lúc, Thẩm Thư đột nhiên hỏi Mạch Dã: “Đến đây hai lần rồi mà không thấy ảnh của Trương Phương trong nhà anh nhỉ?” Mạch Dã dừng lại một lát rồi đáp: “Sao lại không có, khi Trương Phương còn sống, cô ấy thích nhất là chụp ảnh, ảnh nào mà cô ấy thích, sẽ đóng khung rồi treo khắp phòng. Sau khi cô ấy xảy ra chuyện, tôi đã đem gỡ hết xuống, nếu không mỗi lần nhìn thấy mấy tấm ảnh đó, lòng tôi lại quặn đau.” Thẩm Thư lấy làm tiếc, nói: “Làm cảnh sát hay bị mọi người ghét, lần này lại phiền anh, cho chúng tôi xem mấy tấm ảnh của Trương Phương, có thể sẽ có ích cho việc phá án.”

Mạch Dã đáp: “Được, được, không vấn đề.” Bước vào gian phòng bên cạnh, sột soạt một hồi, anh ta bê ra một chồng ảnh và khung ảnh, nói: “Đều ở trong này, mọi người cứ xem thoải mái.” Những tấm ảnh này đều đã qua xử lý hậu kỳ cẩn thận, hơn nữa còn được trang hoàng đẹp đẽ, có thể thấy khi còn sống Trương Phương rất chú trọng đến tiểu tiết trong sinh hoạt. Có thể Thẩm Thư sợ sẽ gợi lại nỗi buồn trong Mạch Dã nên im lặng không nói gì, cúi đầu chăm chú lật xem từng tấm ảnh. Tôi và Vu Ngân Bảo không hiểu ý đồ của Thẩm Thư là gì, không tiện sáp lại gần để xem, bèn cố tìm chủ đề để bắt chuyện với Mạch Dã.

Thẩm Thư lật xem một hồi, lấy ra một tấm hỏi: “Đây là ảnh kết hôn của hai người à? Xem ra tóc hai người đều nhuộm cùng một màu nhỉ.” Tôi liếc mắt nhìn tấm ảnh, thấy Trương Phương búi cao mái tóc màu nâu đỏ, khuôn mặt hạnh phúc tựa vào người Mạch Dã, còn Mạch Dã thì để tóc ngắn màu nâu đỏ, hai người đều khoác trên mình bộ đồ trắng thanh thoát, nam thanh nữ tú, khiến người khác phải ngưỡng mộ. Ánh mắt của Mạch Dã ủ rũ, anh nói: “Trước đây Trương Phương thích nhất là màu tóc nâu đỏ, nửa năm về trước, tâm trạng của cô ấy không tốt, không có tâm trạng chải chuốt, cứ để tóc đen vậy.” Nghe đến đây, tim tôi bỗng thắt lại, thấp thoáng cảm thấy có điều gì đó không đúng.

Thẩm Thư không tiện truy đến cùng việc vợ chồng giữa hai người họ, tiếp tục xem ảnh, làm ra vẻ vô tình nhắc đến chuyện của Trương Phàm, nói: “Từ lần trước gặp Trương Phàm ở nhà anh, mấy nay không nghe thấy tin tức gì về cậu ta nhỉ.” Mạch Dã đáp: “Cậu ta bận mà, chớp mắt là sang Xuân rồi, cậu ta còn bận bán giống nữa, hôm nào cũng đi sớm về muộn.”

Lại ngồi một lát, đã đến lúc chúng tôi phải cáo từ, Mạch Dã cứ nằng nặc giữ chúng tôi lại ăn tối rồi mới được đi. Thẩm Thư nói: “Để lần sau đi, anh có một mình, cơ thể vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, làm cơm đãi nhiều người thế này lao tâm lao lực lắm.” Mạch Dã đáp: “Có gì đâu, một mình tôi vẫn phải tự nhóm bếp thổi cơm đó thôi, trời lạnh thế này, chốc lát lửa cũng không dập được đâu, không thì cái phòng này đã lạnh ngắt rồi.” Nói đến chuyện sưởi ấm, Thẩm Thư bỗng hứng thú, nói: “Trí tuệ của người nông dân lao động thật là vô cùng, nói ngay cái giường lò của dân miền Bắc, có cả tính năng sưởi ấm, ngủ và bảo vệ sức khỏe, sao mà họ lại nghĩ ra được nhỉ? Nghe nói bên trong giường lò là rỗng, có miệng lò, khói sẽ từ miệng lò chui ra, có phải vậy không?” Thẩm Thư lớn lên ở miền Nam, sau khi đến miền Bắc công tác cũng ít khi về quê, bảo sao cậu ta lại hứng thú với giường lò đến thế.

Không đợi Thẩm Thư nói xong, Mạch Dã liền cau mày, lấy tay ôm trán, sắc mặt trắng bệch, bộ dạng như kiểu sắp ngất đến nơi. Tôi và Vu Ngân Bảo vội đỡ anh ta dậy, quan tâm hỏi han: “Sao thế? Chóng mặt à?” Toàn thân Mạch Dã lạnh toát, mãi lâu sau mới thở lại được, đáp: “Không sao, tự nhiên chóng mặt thôi, một lát là khỏi.” Tôi thấy sắc mặt anh ta tái mét, môi nhợt nhạt, nói: “Có phải dạo gần đây tim anh đập rất nhanh không?” Mạch Dã đáp: “Đúng vậy, tim cứ đập thình thịch ấy, nghỉ ngơi kiểu gì cũng không đỡ.” Tôi nói: “Anh bị đánh trống ngực, có thể do thiếu má.u, không được nghĩ lung tung nữa, nghe nhạc nhẹ nhiều vào, quan trọng nhất là biết tự điều tiết bản thân.”

Sau khi Mạch Dã đã ổn định, chúng tôi rời khỏi nhà, trời bắt đầu nhá nhem. Ánh trăng tàn treo lơ lửng trên bầu trời xám xịt, gió đông tạt vào mặt, khiến tôi không khỏi rùng mình.

[Còn tiếp]

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *