Tác giả : Chris Mooney,
Cách mà bộ não đánh lừa chúng ta về khí hậu, chủ nghĩa sáng tạo và mối liên hệ giữa vắc-xin & tự kỉ
(Bài dài)
“Không gì cứng đầu cứng cổ hơn một kẻ có niềm tin. Anh nói không đồng ý thì hắn liền quay đi. Anh chỉ cho hắn thấy sự thật, hoặc số liệu, thì hắn sẽ hỏi anh trích nguồn ở đâu. Trình bày với lý lẽ và dẫn chứng thì hắn lại không hiểu quan điểm của anh” – những lời được viết bởi nhà tâm lý học nổi tiếng của Đại học Stanford, Leon Festinger, thoạt nghe tưởng như đang đề cập đến sự chối bỏ hiện tượng biến đổi khí hậu – một điều mà vẫn con dai dẳng đến tận ngày nay trong một bộ phận không nhỏ người Mỹ, phủ nhận những gì chúng ta biết về sự nóng lên toàn cầu và nguyên nhân của nó chính là do con người. Nhưng thực ra so với thời điểm những lời trên được viết – những năm 1950 – thì là quá sớm cho chủ đề này, thực tế Festinger đang mô tả lại một case study rất nổi tiếng trong tâm lý học.
Festinger và một số đồng nghiệp của ông đã thâm nhập vào Tầm nhân, một giáo phái nhỏ ở khu vực Chicago mà các thành viên của nó nghĩ rằng họ đang liên lạc với người ngoài hành tinh, trong đó có một ‘người’ tên là “Sananda”, được họ tin là hóa thân của chúa Jesus. Nhóm được lãnh đạo bởi Dorothy Martin, vốn sùng đạo Dianetic, người truyền đạt lại thông điệp từ các vì sao thông qua việc viết-nhập-hồn.
Thông qua người phụ nữ này, người ngoài hành tinh đã đưa ra ngày tháng chính xác sẽ xảy ra một trận đại hồng thủy trên Trái Đất: ngày 21 tháng 12 năm 1954. Một số tín đồ của Martin đã bỏ việc và bán hết tài sản, với hy vọng sẽ được giải cứu bởi một chiếc đĩa bay khi lục địa đứt gãy khiến phần lớn nước Mỹ bị nuốt chửng bởi một đại dương mới được sinh ra. Các môn đệ thậm chí đã đi xa đến mức loại bỏ hết các miếng đồng ở áo lót ngực, xé dây kéo khỏi quần, vì họ tin rằng kim loại sẽ gây nguy hiểm cho tàu vũ trụ.
Festinger và nhóm của ông đã ở cùng với giáo phái tại thời khắc lời tiên tri xịt khói. Đầu tiên, “mấy anh giai lầu trên” (người ngoài hành tinh ấy) đã không xuất hiện để giải cứu các Tầm nhân. Tiếp đến, chẳng có sự cố gì vào ngày 21 tháng 12 cả. Festinger đã rất mong chờ khoảnh khắc đó : Liệu những con người cuồng tín mê muội này sẽ phản ứng thế nào đây, khi lời tiên rõ ràng đã không ứng nghiệm?
Thoạt đầu, không ai trong số họ đưa ra được lời giải thích thỏa đáng. Nhưng sau đó sự hợp lý đã được thiết lập. Một tin nhắn mới được gửi đến, nhắn rằng tất cả, ý nói nhân loại, đã được tha vào phút cuối. Festinger đã tóm tắt ngắn tuyên bố của người ngoài hành tinh như sau : “Nhóm người nhỏ, ngồi suốt đêm, đã truyền đi nhiều ánh sáng hi vọng đến nỗi khiến Chúa cứu thế giới khỏi sự hủy diệt”. Chính lòng tin tha thiết của họ vào lời tiên tri đã cứu Trái Đất khỏi chính lời tiên tri đó!
Từ sau thời điểm đó, những Tầm nhân này, trước đây vốn rất ngại báo chí và thờ ơ với việc truyền giáo, lại bắt đầu tích cực lan tỏa hơn. “Họ cảm thấy rằng đó là một việc cấp bách vô cùng khẩn thiết”, Festinger viết. Chứng kiến sự kiện khiến niềm tin của họ vỡ vụn hóa ra lại càng khiến họ vững vào niềm tin của mình hơn.
Ngay cả trong biên niên sử Đen thôi đỏ quên đi, khó có ai đen hơn được những thành viên của Tầm nhân. Mất việc, bị báo chí móc mỉa, và thậm chí còn bị xã hội tìm cách cách ly khỏi những thanh thiếu niên trẻ người non dại. Và giáo phái không gian của Martin, dù chỉ là một sản phẩm ảo tưởng lập lòe của con người, chỉ là một trong rất nhiều giáo phái khác trong xã hội. Và kể từ thời Festinger, một loạt các khám phá mới về tâm lý học và khoa học thần kinh đã vén mở dần về cách mà niềm tin cố hữu có thể bẻ lệch suy nghĩ của chúng ta, và thậm chí giật dây điều khiển khi ta đưa ra những nhận định công bằng và hợp lý nhất mà ta nghĩ mình có thể có. Khuynh hướng này, còn được gọi là “lý luận có động cơ”, giúp giải thích lý do tại sao chúng ta thấy các nhóm phân cực rất lớn trong các vấn đề mà bằng chứng đã vô cùng rõ ràng: biến đổi khí hậu, vắc-xin, “hội đồng tử thần”, nơi sinh và tôn giáo của vị tổng thống, và nhiều cái khác. Dường như là, đối với họ, bằng chứng cũng chỉ là bằng không.
Lý thuyết về lý luận có động cơ được xây dựng trên một yếu tố cốt lõi của khoa học thần kinh hiện đại: Sự lý luận thực ra bị bao trùm bởi cảm xúc (hoặc như các nhà nghiên cứu thường gọi, “bị ảnh hưởng”). Đây là hai thứ vốn không thể tách rời, và hơn thế nữa, cảm giác tích cực hay tiêu cực về con người, sự vật và ý tưởng nào đó bùng lên nhanh hơn nhiều so với suy nghĩ có ý thức của chúng ta, trong một phần nghìn giây, đủ nhanh để phát hiện bằng thiết bị điện não đồ, nhưng lại là rất lâu cho đến khi ta nhận thức được nó. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên: Sự tiến hóa đòi hỏi chúng ta phải phản ứng rất nhanh với các kích thích từ môi trường sống. “Đó là một kỹ năng sinh tồn cơ bản của con người”, nhà khoa học chính trị Arthur Lupia, Đại học Michigan nói. Chúng ta có xu hướng tránh xa những thông tin có tính đe dọa và gần gũi những thông tin thân thiện. Vậy là không chỉ đối với thú dữ, mà ngay cả với dữ liệu con người cũng áp dụng phản xạ chiến-hay-chạy.
Hãy thử đoán xem người ta sẽ phản ứng thế nào sau khi nghe một khám phá khoa học thách thức lớn đến niềm tin của họ vào thuyết thần thánh tạo ra con người – ví dụ như một giống vượn người mới giúp khẳng định nguồn gốc tiến hóa của chúng ta chẳng hạn. Điều xảy ra tiếp theo, nhà khoa học chính trị Charles Taber, Đại học Stony Brook giải thích, sẽ là một phản ứng tiêu cực trong tiềm thức đối với thông tin mới, và phản ứng đó, khi được kích hoạt, sẽ điều hướng các ký ức và liên tưởng đã hình thành sẵn trong ý thức. “Họ sẽ bám lấy những suy nghĩ phù hợp với niềm tin sẵn có của mình”, ông nói, “và điều đó sẽ khiến họ bắt đầu tranh luận và thách thức những gì họ mới được nghe”.
Nói cách khác, khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta lý luận, thì thực ra ta đang cố hợp lý hóa. Hoặc nói theo lời của nhà tâm lý học Jonathan Haidt, Đại học Virginia thì là : Ta nghĩ rằng mình đang lý luận như một nhà khoa học, nhưng thực sự ra ta đang lý luận như một luật sư. Những “lời diễn giải” của ta chỉ nhằm đến một mục đích đã được định sẵn –thắng “vụ” này – và chúng nhuốm đầy những thiên vị. Trong đó bao gồm “thiên kiến xác nhận”, khi mà ta chủ chăm chăm đến những bằng chứng và lập luận giúp củng cố niềm tin của bản thân, và “thiên kiến phủ nhận”, tức là thể hiện cảm xúc một cách quá đà để vạch trần và bác bỏ những lập luận mà ta thấy không thích hợp. (*gân cổ lên nói, mặt đỏ tía tai)
Mặc dù nói như trên thì toàn từ chuyên môn, nhưng khi xét đến các mối quan hệ đời thường thì tôi nghĩ chúng ta đều hiểu điều được ám chỉ . Nếu tôi không muốn tin rằng người bạn đời là kẻ không chung thủy, hoặc con của mình là kẻ bắt nạt, rất có thể tôi sẽ nói vòng vo Tam quốc để bào chữa cho hành vi của họ dù chúng dường như đã hiển nhiên đối với những người khác – những người mà chẳng quá mù quáng đến nỗi đồng tình với chúng. Điều này không có nghĩa rằng chúng ta không biết cách để nhận thức về thế giới một cách chính xác, hoặc chúng ta không bao giờ thay đổi suy nghĩ của mình – chúng ta có biết và có thay đổi. Nhưng chỉ là, chúng ta ưu tiên những mục tiêu quan trọng khác hơn là tính chính xác – ví dụ như để khẳng định danh tính, bảo vệ quan niệm bản thân – và những mục tiêu khác này thường khiến ta trở nên ngoan cố không muốn thay đổi niềm tin của mình dù, căn cứ vào sự thật, chúng ta nên.
Khoa học hiện đại có khởi nguồn từ những nỗ lực nhằm loại bỏ hoàn toàn những suy nghĩ chủ quan – thứ mà nhà lý thuyết phương pháp khoa học vĩ đại thế kỷ 17, Francis Bacon, gọi là “những quan niệm sai lầm của trí óc”. Cho dù các nhà nghiên cứu thường có xu hướng ưu ái các lý thuyết của bản thân, việc đánh giá chéo và sự phổ biến của chủ nghĩa hoài nghi ở quy mô rộng sẽ giúp đảm bảo những ý tưởng tốt nhất luôn thắng thế.
Tuy nhiên, phản ứng cá nhân của chúng ta đối với kết luận mà khoa học lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Trớ trêu thay, một phần do các nhà nghiên cứu dùng quá nhiều sắc thái ngữ nghĩa nhằm làm sáng tỏ những điều chưa chắc chắn, chưa được biết lại khiến các bằng chứng khoa học rất dễ bị diễn giải sai. Đưa cho những người có niềm tin bảo thủ các dữ liệu khoa học liên quan xác đáng đến niềm tin của họ thì cũng giống như mang cho họ một ly trà sữa chữa đầy những viên lý luận có động cơ ngon ngọt.
Và đúng như dự đoán, một số lượng lớn các nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng con người sẽ phản ứng với bằng chứng khoa học – kỹ thuật theo cách nào đó nhằm biện minh cho niềm tin cố hữu của họ. Trong một thí nghiệm cực kỳ nổi tiếng năm 1979, hai phe một bên là ủng hộ, một bên là phản đối án tử hình được cho xem hai kết quả nghiên cứu giả : một cái củng cố và một cái làm suy yếu ý niệm rằng hình phạt tử hình sẽ giúp ngăn chặn tội phạm bạo lực và, đặc biệt là, giết người. Những người này cũng được cho xem bản đánh giá bằng phương pháp luận chi tiết về hai nghiên cứu giả mạo ấy – và theo đó, xét một cách khoa học, cả hai cái đều hợp lý ngang nhau. Tuy nhiên, cả hai phe đều chỉ trích thậm tệ nghiên cứu có kết luận trái với quan điểm của họ, trong khi đánh giá nghiên cứu có kết luận xác đáng với niềm tin của mình là “có tính thuyết phục” hơn.
Kết quả cũng tương tự trong cách mọi người phản ứng với các “bằng chứng” của về chính sách chống phân biệt đối xử, việc kiểm soát súng, tính chính xác của các định kiến về đồng tính và nhiều thứ khác. Ngay cả khi những người này đã được hướng dẫn rõ ràng để tránh tạo ra suy nghĩ thiên vị nhất có thể, và thậm chí được cung cấp bằng chứng cho cả hai luồng đối lập, hầu như không ai thành công trong việc đưa ra được kết luận công bằng.
Và điều này hoàn toàn không phải do chúng ta chỉ đọc về những bằng chứng khoa học một cách chọn lọc để hỗ trợ quan điểm cố hữu của mình. Theo nghiên cứu của giáo sư Dan Kahan, khoa Luật Đại học Yale, và các đồng nghiệp, mọi người thường có quan niệm riêng rất mạnh mẽ về quy chuẩn đạo đức và trật tự xã hội, họ thường tích cực dự đoán xem ai sẽ nên được cân nhắc là chuyên gia khoa học trước – để từ đó, họ sẽ cân nhắc xem các vấn đề gây tranh cãi có “tính khoa học” hay không.
Trong nghiên cứu của Kahan, các cá nhân được phân loại dựa trên các giá trị văn hóa, để nhận biết họ theo “chủ nghĩa cá nhân” hay “chủ nghĩa cộng đồng”, có xu hướng “phân hóa thứ bậc” hay “đối xử công bằng”. (Nói đơn giản thì, bạn có thể coi những người theo chủ nghĩa cá nhân & phân hóa thứ bậc là phe Cộng hòa, và những người “chủ nghĩa cộng đồng & đối xử bình đẳng là những người tự do phe Dân chủ). Trong một thí nghiệm, các đối tượng trong các nhóm khác nhau được yêu cầu giúp một người bạn thân cân nhắc về rủi ro của hiện tượng biến đổi khí hậu, xử lý rác thải hạt nhân, hoặc luật được mang theo vũ khí, với giả định : “Bạn của anh/chị nói rằng họ dự định đọc một cuốn sách về vấn đề này nhưng muốn tham khảo ý kiến của bạn về việc liệu tác giả có phải là một chuyên gia hiểu biết và đáng tin cậy hay không”. Người tham gia sau đó được các nhà nghiên cứu giới thiệu một chuyên gia (với lý lịch giả) như sau, “là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, có bằng tiến sĩ trong một lĩnh vực thích hợp từ một trường đại học ưu tú và hiện đang là giảng viên của một trường khác”. Tiếp đó, những người tham gia được đưa ra một đoạn trích từ sách của “chuyên gia” đó, trong đó những rủi ro của vấn đề cần giải quyết được mô tả cao hoặc thấp, lập luận chặt chẽ hoặc đầy tính cảm quan. Kết quả rất rõ ràng: ví dụ với vấn đề biến đổi khí hậu, khi vị chuyên gia nêu quan điểm rằng sự nóng lên toàn cầu là có thật và do con người gây ra, chỉ có 23% những người theo chủ nghĩa cá nhân & phân hóa thứ bậc đồng ý rằng người đó là một “chuyên gia đáng tin cậy và hiểu biết”. Trong khi đó, con số này ở những người chủ nghĩa cộng đồng & đối xử bình đẳng là 88%. Đối với các vấn đề liệu chất thải hạt nhân có thể được lưu trữ an toàn dưới lòng đất hay không, và liệu việc cho phép mọi người mang súng có giúp ngăn chặn hành vi phạm tội hay không cũng có kết quả tương tự. (Tuy thế gió không phải lúc nào cũng thổi một chiều. Trong một nghiên cứu khác, những người theo chủ nghĩa cộng đồng và phân hóa cấp bậc đã ủng hộ luật cưỡng chế người mắc bệnh tâm thần phải chấp nhận điều trị, trong khi những người theo chủ nghĩa cá nhân và đối xử bình đằng thì ngược lại)
Nói cách khác, mọi người đã bác bỏ tính hợp lý của nguồn dẫn chứng khoa học vì kết luận của nó – ở đây là những rủi ro gắn với từng vấn đề được nêu – mâu thuẫn sâu sắc với quan điểm của họ. Một người theo chủ nghĩa cá nhân & phân hóa thứ bậc cảm thấy khó mà tin được rằng những thứ anh ta ủng hộ (thương mại, công nghiệp, quyền tự do sở hữu súng để bảo vệ gia đình) có thể dẫn đến những kết quả xấu cho xã hội. Trong khi đó, những người chủ nghĩa cộng đồng & đối xử bình đẳng có xu hướng nghĩ rằng thị trường tự do là không tốt, rằng lối nuôi dạy gia trưởng sẽ có hại cho trẻ em, và rằng việc tự do sở hữu súng đạn sẽ vượt quá khả năng kiểm soát của người dân. Phải nói thêm là các đối tượng tham gia nghiên cứu không phải là những người chống đối khoa học. Đơn giản chỉ là, đó không phải là “kiểu khoa học” mà họ muốn tin. “Đây thực sự là một điều không may, một tình huống tồi tệ, khi mà những công dân từ nhiều thành phần trong xã hội, những người có nền tảng văn hóa khác biệt, đang mâu thuẫn lẫn nhau”, Kahan nói.
Và điều đó sẽ làm xói mòn quan niệm chuẩn rằng cách tốt nhất để thuyết phục người khác là thông qua bằng chứng và lập luận. Trên thực tế, cố gắng thuyết phục một cách gò ép đôi khi có thể gây ra hiệu ứng ngược, khiến đối tượng không những không thay đổi suy nghĩ khi đối mặt với sự thật mà thậm chí còn bám lấy quan điểm sai một cách kiên quyết hơn bao giờ hết.
Lấy ví dụ, nghi vấn liệu Saddam Hussein có sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt tại thời điểm ngay trước khi Mỹ xâm chiếm Iraq năm 2003. Khi các nhà khoa học chính trị Brendan Nyhan và Jason Reifler đưa cho các đối tượng nghiên cứu một số bài báo giả mạo với nội dung thoạt đầu là xác nhận (trích lời Tổng thống Bush vào năm 2004) và phần sau là bác bỏ (với báo cáo của Nhóm khảo sát Iraq do Bush ủy nhiệm, kết luận không tìm thấy bằng chứng nào về các chương trình Vũ khí hủy diệt hàng loạt đang được xúc tiến ở Iraq trước thời điểm xâm lược), họ thấy rằng những người phe bảo thủ có xu hướng tin vào sự cáo buộc hơn cả trước đây. (Các nhà nghiên cứu cũng đã thử nghiệm xem liệu những người phe Tự do sẽ phản ứng thế nào khi được cho biết Bush không thực sự “cấm” nghiên cứu tế bào gốc. Kết quả, các đối tượng không hoàn toàn bị thuyết phục, nhưng cũng không thấy hiệu ứng phản ứng ngược xảy ra)
Một nghiên cứu khác đưa ra một số ý kiến trái chiều về những gì có thể xảy ra trong tâm trí một người khi họ kháng cự lại việc bị thuyết phục. Nhà xã hội học Monica Prasad, thuộc Đại học Northwestern, và các đồng nghiệp của bà muốn kiểm tra xem liệu họ có thể đánh bật quan điểm ‘Saddam Hussein và Al Qaeda đang bí mật hợp tác’ giữa những đối tượng có xác suất cao sẽ tin vào khả năng này – những người theo phe Cộng hòa đến từ các hạt thân với phe này. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành một nghiên cứu trong đó họ thảo luận riêng về chủ đề này với từng đối tượng : Họ trích dẫn những phát hiện của Ủy ban 11/9, cũng như một tuyên bố trong đó chính George W. Bush phủ nhận chính quyền của mình đã “nói rằng các cuộc tấn công 11/9 được dàn xếp bởi Saddam và Al Qaeda”.
Kết quả thật ngạc nhiên, ngay cả những lời của chính Bush nói cũng không thể thay đổi suy nghĩ của những cử tri ủng hộ ông này – chỉ có duy nhất 1 trong số 49 người tham gia đã thay đổi suy nghĩ của mình. Phản ứng phổ biến nhất giữa những người này thường là kháng cự lại thông tin điều chỉnh theo nhiều cách khác nhau, bằng cách đưa ra các phản biện hoặc đơn giản là không thay đổi bất chấp tất cả :
Người phỏng vấn : Ủy ban 11/9 không tìm thấy bất kì mối liên hệ nào giữa Saddam và sự kiện 11/9, và đây là những gì Tổng thống Bush nói. Bạn có ý kiến gì về một trong hai điều này không?
Đối tượng : Chà, tôi cũng cho là những điều Ủy ban nói về vụ không tìm thấy bằng chứng là thật, nhưng tôi đoán chúng ta vẫn có thể giữ ý kiến và cảm giác của mình dù ai nói thế nào đi nữa.
Các kết quả phản hồi tương tự cũng được ghi nhận liên quan đến các chủ đề gây chia rẽ khác trong xã hội. Ví dụ về trường hợp “nhà thờ Hồi giáo Ground Zero”. Sử dụng thông tin từ trang web chuyên bác bỏ những tin đồn chính trị hoang đường, FactCheck.org, một nhóm nghiên cứu tại bang Ohio đã đưa ra các phản bác chi tiết lời tuyên bố “Feisal Abdul Rauf, vị lãnh tụ Hồi giáo ủng hộ đề xuất trung tâm văn hóa và nhà thờ cho người Hồi giáo, là một kẻ có cảm tình với khủng bố”. Cho dù thế, trong số những người tin vào tin đồn này, chưa đến một phần ba thay đổi suy nghĩ của họ.
(*Ground Zero là nơi từng tọa lạc tòa tháp đôi TTTM Thế giới. “Nhà thời Hồi giáo Ground Zero” là biệt danh của tòa nhà Trung tâm cộng đồng người Hồi giáo, nằm gần khu vực Ground Zero, do Feisal Abdul Rauf lãnh đạo)
Câu hỏi quan trọng ở đây – và là một câu hỏi khó có thể trả lời được – là sự “phi lý” của tất cả những điều này đang ở mức độ nào. Xét một cách thực tế, thật khó tưởng tượng ai đó sẽ đạp đổ đi toàn bộ bức tường niềm tin đã được dựng lên trong suốt cuộc đời họ chỉ vì một vài luồng thông tin mới thổi đến. “Có thể diễn tả những gì diễn ra trong đầu họ như sau, ‘Tôi đã đi đến quyết định ủng hộ án tử hình như hiện nay dựa trên tất cả những thông tin từng nhận được trong suốt cuộc đời mình’”, nhà tâm lý học xã hội Jon Krosnick, đại học Stanford giải thích. Thật vậy, ở một khía cạnh nào đó, sự phủ nhận khoa học cũng có thể được coi là “hợp lý”. Giáo sư Kahan Đại học Yale giải thích, “Trong một số cộng đồng những người theo phe bảo thủ, những người nói ‘Tôi nghĩ rằng biến đổi khí hậu cũng không phải là không có’ sẽ bị đánh dấu như một kẻ lạc loại, và nó khiến cuộc sống của họ sẽ ít nhiều khó khăn hơn”.
Điều này có thể giúp giải thích một mô hình đáng lưu ý mà nhà khoa học chính trị Nyhan cùng các đồng nghiệp đã phát hiện ra khi họ cố gắng đánh giá lối ngụy biện ‘Tổng thống Obama là người Hồi giáo’. Khi đối mặt với một nhà nghiên cứu không-phải-da-trắng trong thí nghiệm, các đối tượng tham gia trở nên có thể thay đổi suy nghĩ của họ về tôn giáo của Tổng thống và tiếp thu các quan điểm chính xác. Nhưng khi chỉ có các nhà nghiên cứu da trắng góp mặt, các đối tượng tham gia thuộc phe bảo thủ nói riêng có nhiều khả năng tin vào lời đồn Obama-Hồi giáo hơn trước. Các đối tượng đã sử dụng “thiên kiến mong đợi xã hội” để điều chỉnh niềm tin của họ tùy vào việc ai là người họ tiếp xúc.
Điều này dẫn chúng ta đến với truyền thông. Khi cộng đồng có sự phân cực quan điểm về một hệ thống chứng cứ, hoặc một vấn đề thực tế có thể giải quyết được, nguyên nhân có thể là một dạng lý luận thiên vị nào đó, nhưng cũng có thể do ngay từ đầu họ đã nhận được thông tin sai lệch – hoặc có thể là do sự kết hợp phức tạp cả hai thứ. Chẳng hạn, trong trường hợp nhà thờ Hồi giáo Ground Zero, một nghiên cứu tiếp theo cho thấy những người trả lời khảo sát đã xem Fox News có nhiều khả năng tin vào tin đồn Rauf và ba tin đồn khác có liên quan – và họ tin vào điều này hơn hẳn những người không theo dõi Fox.
Được rồi, vậy là người ta bị thu hút bởi thông tin giúp xác nhận điều họ tin, và họ ưa thích các nguồn cung cấp thông tin đó hơn. Cũng giống như các kết quả trước thôi mà nhỉ? Có lẽ, nhưng vấn đề đang ngày càng trở nên nhức buốt hơn, bởi cách chúng ta hấp thụ thông tin – qua đường dẫn chia sẻ của bạn bè trên Facebook, hoặc các dòng tweet thiếu sắc thái hoặc bối cảnh, hay “truyền thông hẹp” – thường là các chương trình có ý thức hệ rất cao nhằm vào một lượng khán giả nhỏ, có chung quan điểm. Những kỹ năng sinh tồn bản năng của con người, theo Arthur Lupia, Đại học Michigan, “không giúp thích nghi được với thời đại thông tin hiện nay”.
Và nếu bạn muốn tìm hiểu như thế nào và tại sao sự thật lại bị vùi dập bởi lý luận có động cơ, thì không có chủ đề nào tốt hơn là biến đổi khí hậu. Rốt cuộc, đó là một vấn đề mà ta có hai phe : một bên có thông tin chuyên môn cao, một bên có niềm tin rất vững chắc. Và chắc chắn, ta có thể dự báo được liệu một người có tin vào bằng chứng khoa học về sự nóng lên toàn cầu hay không căn cứ vào việc người đó theo đảng Cộng hòa hay đảng Dân chủ. Sự chia rẽ quan điểm của hai nhóm ngày càng sâu sắc hơn, ngay cả khi các bằng chứng khoa học đã trở nên không thể rõ ràng hơn được nữa.
Vì vậy, có lẽ không có gì ngạc nhiên khi việc được giáo dục nhiều hơn cũng không làm suy chuyển quan điểm của người theo phe Cộng hòa? Và thực tế là : Trong một cuộc khảo sát năm 2008 của Trung tâm nghiên cứu Pew, chỉ có 19% những người phe Cộng hòa có trình độ đại học đồng ý rằng Trái Đất nóng lên do hành động của con người, so với 31% những người không có trình độ đại học. Nói cách khác, mức độ được giáo dục càng cao, khả năng từ chối khoa học về vấn đề này càng tăng. Trong khi đó, với những người theo phe Dân chủ độc lập, được giáo dục nhiều hơn tương quan với sự chấp nhận lớn hơn.
Các nghiên cứu khác đã cho thấy kết quả tương tự: Những người phe Cộng hòa nghĩ rằng họ hiểu rõ vấn đề nóng lên toàn cầu nhất lại là những người ít tin vào nó nhất; và trong số này, với những người có mức độ ngờ vực khoa học nhiều hơn bình thường, việc tìm hiểu thêm về vấn đề này cũng không làm tăng thêm mối quan ngại của họ. Làm sao mà có thể như thế được? Theo Charles Taber và Milton Lodge của Đại học Stony Brook, sự ma mãnh của lý luận có động cơ nằm ở chỗ những người ngụy biện chính trị có xu hướng thiên vị hơn những người ít biết về các vấn đề. “Những người không thích một số chính sách, ví dụ như phá thai, nếu họ không theo lối ngụy biện, họ có thể từ chối điều đó,” Lodge nói. “Tuy nhiên, nếu họ ngụy biện, họ có thể tiến thêm một bước nữa và bắt đầu đưa ra những phản biện”. Những người này cũng bị điều khiển bởi cảm xúc và có tính thiên vị như tất cả chúng ta, nhưng họ có thể tìm được rất nhiều lý do xác đáng để giải thích tại sao điều họ nghĩ là đúng – và vì thế, tâm trí họ trở nên khó thay đổi hơn.
Đó có thể là lý do tại sao những email được trích dẫn có chọn lọc của vụ việc Climategate (*Vụ rò rỉ email từ các nhà khoa học hàng đầu thế giới liên quan đến những quan điểm trái ngược nhau về biến đổi khí hậu) lại nhanh chóng và dễ dàng bị các đảng phái thổi phồng lên thành ‘bằng chứng’. Sự lấp liếm bằng chứng chính xác là loại hành vi mà ta có thể đoán được những người lý luận có động lực sẽ dùng để củng cố quan điểm của họ – và dù cho bạn có nghĩ thế nào về vụ việc Climategate, những email đấy là một kho thông tin hiệu quả để áp đặt ý thức hệ lên ai đó.
Vụ việc Climategate có tác động đáng kể đến dư luận, theo Anthony Leiserowitz, giám đốc Dự án về Truyền thông Thay đổi Khí hậu của Đại học Yale. Nó đã góp phần làm giảm sự lo lắng chung của công chúng về biến đổi khí hậu và sự mất niềm tin đáng kể vào các nhà khoa học. Nhưng – như đến đây thì có thể bạn đã đoán được – thì những sự từ chối này tập trung vào một số nhóm người Mỹ cụ thể: Đảng Cộng hòa, những người bảo thủ và những người đề cao giá trị “cá nhân”. Đảng Tự do và những người đề cao giá trị “công bằng” không mất nhiều niềm tin vào lĩnh vực khoa học khí hậu hay các nhà khoa học. “Theo một cách nào đó, Climategate giống như một bài thử Rorschach”, Le Leowowitz nói, “với các nhóm khác nhau diễn giải những sự thật mơ hồ theo những cách rất khác nhau.”
Liệu có một case study nào về việc phủ nhận khoa học mà đặc biệt nhuốm màu chính trị không? Có : chính là cáo buộc ‘việc tiêm vắc-xin thời thơ ấu là nguyên nhân gây ra dịch bệnh tự kỷ hiện nay’.
Những người đề xướng nổi tiếng nhất của tuyên bố này là một nhà bảo vệ môi trường (Robert F. Kennedy Jr.) và nhiều minh tinh Hollywood (nổi bật nhất là Jenny McCarthy và Jim Carrey). Huffington Post chính là chiếc loa phường của những người phủ nhận. Và Seth Mnookin, tác giả của cuốn sách The Panic Virus, lưu ý rằng nếu bạn muốn tìm những người chối bỏ vắc-xin, tất cả những gì bạn cần làm là đến hóng ở Whole Foods.
Hành vi chối bỏ vắc-xin có tất cả các đặc điểm nổi bật không thể phủ nhận của một hệ thống niềm tin. Trong thập kỷ qua, sự quả quyết rằng tiêm vắc-xin lúc nhỏ là nguyên nhân gây tự kỷ đã bị đập tan bởi nhiều nghiên cứu dịch tễ học – cũng như thực tế đơn giản là tỷ lệ tự kỷ tiếp tục tăng, mặc dù được cho là tác nhân dị ứng có trong vắc-xin (một chất bảo quản chế từ thủy ngân gọi là thimerosal) đã được bỏ đi từ lâu.
Thế nhưng, các ‘tín đồ’ vẫn kiên quyết – chỉ trích mỗi nghiên cứu mới thách thức quan điểm của họ, và thậm chí tập hợp lại để bảo vệ nhà nghiên cứu vắc-xin-tự kỉ Andrew Wakefield, sau khi bài đăng trên tuần san Lancet năm 1998 của ông này (nội dung bắt nguồn từ nỗi sợ vắc-xin hiện hành thời đó) bị rút lại và sau đó ông bị tước giấy phép hành nghề y. Nhưng mà này, sao chúng ta phải ngạc nhiên nhỉ? Những người chống đối tiêm vắc-xin đã tạo ra đảng phái truyền thông riêng, chẳng hạn như trang web Age of Autism, nơi mà sẽ ngay lập tức đưa ra những lời chỉ trích và phản biện bất cứ khi nào có bất kỳ sự quan ngại nào nghi ngờ về quan điểm chống vắc-xin.
Tất cả điều này làm dấy lên câu hỏi: Liệu có sự khác biệt về giá trị ý nghĩa nào giữa tả và hữu khi xét đến tính thiên vị trong quá trình xử lý thông tin, hay tất cả chúng ta đều dễ bị ảnh hưởng như nhau?
Một số khác biệt là rất rõ ràng. Sự phủ nhận khoa học ngày nay nổi bật hơn đáng kể ở khía cạnh quyền chính trị – đây là kết luận từ các khảo sát về các vấn đề khí hậu và môi trường liên quan, chống tiến hóa, công kích khoa học sức khỏe sinh sản của những người Cơ đốc giáo, và các vấn đề tế bào gốc và y sinh. Đáng nói hơn, các quan điểm chống vắc-xin hầu như không tồn tại giữ những người theo đảng Dân chủ ngày nay, trong khi quan điểm chống khoa học về khí hậu đang trở nên độc bá giữa các quan chức được bầu của đảng Cộng hòa.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng có sự khác biệt về tâm lý giữa cánh tả và cánh hữu có thể tác động đến phản ứng với thông tin mới – tức là những người phe bảo thủ cứng nhắc và độc đoán hơn, và những người phe tự do cởi mở hơn với sự mơ hồ. Nhà tâm lý học John Jost, Đại học New York đã lập luận thêm rằng những người phe bảo thủ là những “người biện minh cho hệ thống”: Họ vin vào lý luận có động cơ để bảo tồn trạng thái hiện tại.
Tuy nhiên, đây là một chủ đề gây tranh cãi, bởi ngay khi người ta cố gắng phân tích tâm lý do sự khác biệt chính trị vốn có, một loạt các phản biện nổi lên: Thế còn những người thuộc chủ nghĩa độc tài và cộng sản? Thế còn lịch sử phát triển khác nhau của các đảng phái chính trị khác nhau? Rốt cuộc, trường hợp kinh điển nhất về sự phủ nhận khoa học do ý thức hệ có lẽ là sự bác bỏ di truyền học ở Liên Xô, khi mà tất cả những nhà nghiên cứu bất đồng với nhà khoa học Trofim Lysenko – người phản đối thuyết di truyền Mendel, và là con rối của Stalin – đều bị tố cáo là khoa học “tư sản” và bị đuổi khỏi nước.
Tóm lại, tất cả những gì chúng ta hiện có thể chắc chắn được là một thực tế rằng tất cả mọi người ai ai cũng đều mù quáng trong một số tình huống nhất định. Và điều này dẫn đến câu hỏi: Điều gì có thể được thực hiện để chống lại chính bản chất con người?
Xét đến việc niềm tin sẵn có thể khiến ta lệch lạc trong việc phản ứng trước thông tin mới, có một điều đã trở nên rất rõ ràng : Nếu bạn muốn ai đó chấp nhận kiến thức mới, hãy đảm bảo là bạn sẽ trình bày cho họ theo cách không gây kích hoạt phản ứng phòng bị và sự cảm tính.
Quy tắc trên cũng đang dần trở nên phổ biến nhờ công của giáo sư Dan Kahan. Trong một nghiên cứu, ông và các đồng nghiệp đã cô đọng những kiến thức khoa học cơ bản về biến đổi khí hậu thành các bài báo giả mang hai tiêu đề rất khác nhau – “Hội đồng khoa học đề xuất Giải pháp chống ô nhiễm cho sự nóng lên toàn cầu” và “Hội đồng khoa học đề xuất Giải pháp hạt nhân cho sự nóng lên toàn cầu” – sau đó thử nghiệm để xem cách những công dân có giá trị văn hóa khác nhau sẽ trả lời như thế nào. Hẳn nhiên, hai nội dung được chau chuốt tỉ mỉ theo quy tắc đã khiến những người theo chủ nghĩa cá nhân phân hóa thứ bậc cởi mở hơn rất nhiều khi chấp nhận thực tế rằng con người đang gây ra sự nóng lên toàn cầu. Kahan cho rằng hiệu ứng này xảy ra bởi vì nội dung khoa học đã được viết thành hai câu chuyện có tính thay thế nhau đã cuốn hút được quan điểm ủng hộ công nghiệp của họ.
Và theo logic đó ta có thể kết luận : Những người bảo thủ nhiều khả năng sẽ nắm bắt được khoa học về biến đổi khí hậu nếu thông được được truyền đến họ thông qua một nhà lãnh đạo doanh nghiệp/ tôn giáo – người có thể đề cập đến vấn đề theo những lối khác so với những lập luận thường thấy của các nhà môi trường học hoặc nhà khoa học. Làm như vậy sẽ đạt được một số hiệu quả thực tế, và là dấu hiệu của sự ‘cải thiện quan hệ song phương’ trong bối cảnh, mà theo giáo sư Kahan gọi, “cuộc chiến văn hóa về sự thật”. Nói cách khác, nghịch lý là, để thuyết phục, đừng vội vã tung ra một loạt các sự thật mà hãy đưa ra các giá trị trước – để từ đó sự thật sẽ có cơ hội ở phía sau.
