Trả lời: Jose Geraldo Gouvea, có bằng cấp trong ngành lịch sử và có vài năm làm giáo viên trung học.
Sự thật tàn khốc nhất đó là Joseph Goebbels đã đúng về việc tuyên truyền và mọi chế độ sau này đều làm theo những gì ông đã dạy nếu không muốn bị đánh bại bởi việc tuyên truyền của những đối thủ chính trị.
Vậy Goebbels đã đúng về điều gì?
Đó là lời nói dối trắng trợn và ngu xuẩn nhất sẽ chiếm trọn con tim và tâm trí của con người. Họ tin vào những thứ khó tin nhất thay vì nhìn vào thực tế. Nguyên nhân là do họ bị choáng ngợp (“điều này mà là thật thì sao?”) và có niềm tin (“không ai mặt dày đến mức để bảo đây là nói dối”). Họ đồng thời cũng dễ tin vào những điều phù hợp với giả định của bản thân.
Vai trò của báo chí là để lừa dối: “Báo chí giống như là một cái bàn phím vĩ đại nằm trong tay của chính phủ.”
Báo chí nói dối để hướng đến một mục tiêu, thay vì phí thời gian để giải thích những chuyện đã thực sự xảy ra: “Trong tuyên truyền, việc giúp lên kế hoạch cho một sự kiện trong tương lai quan trọng hơn việc đi giải thích cho việc đã xảy ra từ trước.” Có thể bạn đã để ý thấy rằng báo chí báo chí ngày càng có ít những bài tường thuật và giải thích những thứ đã xảy ra, nhưng lại có nhiều bài tranh cãi về việc nên làm thế nào và khi nào thì làm. Đây chính là tư tưởng cơ bản của phát xít: hành động trước khi so sánh, phản ứng trước khi hiểu rõ, dịch chuyển trước khi suy xét.
Tuyên truyền chính trị cũng phải rất tinh tế: “Phương thức tuyên truyền hiệu quả nhất đó là nó hoạt động một cách âm thầm, thâm nhập vào đời sống mà không làm cho cộng đồng biết về sự tồn tại của nó.”
Hitler từng nói rằng “Con người khi ở trong đám đông, có tính cách và suy nghĩ giống như một phụ nữ đó là những ý kiến và hành động của họ bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh tác động lên các giác quan hơn là một sự phản ánh thuần tuý.”
Để làm giảm đi khả năng suy xét lý lẽ của con người (vốn đã rất ít), việc tuyên truyền cần phải được chia nhỏ và đưa ra từ từ. Bằng cách này, bạn sẽ không để ý đến việc tuyên truyền đang diễn ra, nhưng hiệu ứng tích luỹ dần dần sẽ trở thành những hiệu ứng đòi hỏi. Như Goebbels đã nói: “Việc đưa tin hàng tuần rất mất công nhưng nó xứng đáng, nó dần dần tạo nên ở con người những ý nghĩ về chiến tranh.” Một lần nữa: không bàn về quá khứ, không phản ánh, không giải thích, không cho người dân cơ hội đặt câu hỏi. Hãy cho họ thấy một tương lai.
Nhưng mọi chuyện có thể trở nên khó khăn cho báo chí khi mà nó đưa những tin trái ý chính phủ. Washington Post vẫn còn tồn tại sau khi đưa tin về vụ Watergate là do họ có những mối quan hệ rất sâu trong chính phủ, điều mà Julian Assange, người thậm chí không phải là công dân Mỹ, không có.
Mục tiêu của việc tuyên truyền đó là tạo ra một phiên bản được tẩy sạch của thực tại, trong đó nhà cầm quyền là người tốt và những kẻ dám thách thức sẽ phái đối mặt với một cuộc chiến không cân sức.
Bức tranh tuyên truyền bên dưới khá tồi. Một tác phẩm tuyên truyền tốt sẽ không trắng trợn đến mức đó. Goebbels tin rằng việc tuyên truyền cần phải được chia nhỏ và lặp lại cho đến mức bão hoà. Giống như bộ phim Big Hero 6 vậy.
Một bộ phim vô hại nhưng vẫn chứa đựng một vài điểm tuyên truyền mà đối tượng khán giả (thường là trẻ em) của nó chưa thể nhìn ra. Tôi xem phim này cùng với con mình và có nói chuyện với chúng về những tình tiết chính, đặt ra những câu hỏi để chúng động não và tự tìm ra câu trả lời. Tôi sẽ chia sẻ vài điểm chính trong cốt truyện.
Phim kể về nhóm các anh hùng truy đuổi một kẻ xấu bí ẩn đã ăn cắp được một công nghệ nano phát triển bởi một sinh viên có tên Tadashi, người đã chết trong một vụ tai nạn cùng với thầy của mình tại trường đại học. Mọi người cho rằng có ai đó đứng sau việc này và kẻ đáng nghi nhất là một doanh nhân rất tàn nhẫn đang muốn kiểm soát phát kiến của Tadashi để kiếm tiền. Nhưng sự thật là vị doanh nhân đó chỉ muốn ứng dụng công nghệ này trên diện rộng vì ích lợi của cộng đồng, còn người thầy của Tadashi mới là thủ phạm do muốn chiếm lấy bản quyền và sử dụng nó cho mục đích riêng. Ông ta cũng chưa chết ở cuối phim, và sẽ còn quay lại để “thống trị thế giới”.
Điều này chính là tư tưởng của chủ nghĩa tư bản. Trẻ em được ngầm dạy rằng doanh nhân là những người tốt muốn đưa công nghệ đến với đại chúng, và kiếm được lợi nhuận chính đáng bằng cách biến giấc mơ của những nhà nghiên cứu thành sự thực là một sản phẩm tiêu dùng. Đó chính là hệ tư tưởng đã tạo nên thung lũng Silicon.
Tôi không phủ định tính chính đáng của cách diễn đạt này. Bài này không nhằm mục đích khẳng định hình thức chính trị và kinh tế nào là số 1. Tôi nhắc đến nó như là một ví dụ để cho thấy rằng việc truyền bá những hệ tư tưởng có thể được cài cắm vào những tác phẩm nghệ thuật tưởng như vô hại.
Một ví dụ cũng rất tinh tế nữa đó là bộ phim “Wolf” của Mike Nichols. Trong phim một biên tập viên bị cách chức và bị vợ cắm sừng. Sau đó, anh ta bị một con sói cắn và các giác quan được cải thiện, giúp cho anh tìm ra được sự không chung thuỷ của người và cách thức mờ ám của kẻ đã cướp mất vị trí của anh ở cơ quan. Anh đánh bại kẻ đối đầu và tồn tại trở thành một con sói đúng nghĩa hơn nhân vật của DiCaprio.
Việc tuyên truyền ở đây dạy chúng ta những doanh nhân quyết liệt là có đạo đức (như những con sói). Chúng ta nên là những kẻ săn mồi, áp đảo những người xung quanh như là một con thú ở trong đàn của nó. Đây chính là linh hồn của chủ nghĩa tư bản.
Thêm một ví dụ nữa cho thấy sự tài tình việc tuyên truyền đó là bộ phim The Mist. Được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Stephen King, Frank Darabont đã thay đổi cốt truyện khiến cho thông điệp của nó cũng bị thay đổi theo. Việc King có thể hiện là “thích” việc này là không liên quan: King đã thay đổi kể từ khi viết tiểu thuyết này năm 1980. Ủng hộ những thay đổi của Darabont là một cách khác để ông kể lại câu chuyện và đưa ra một góc nhìn mới.
Màn sương mù là một thảm hoạ được gây ra bởi một một thí nghiệm quân sự bất cẩn, tạo ra một cánh cửa sang một chiều không gian khác chứa đầy quái vật. Khi những con qúai vật tấn công và ăn thịt người dân trong thị trấn, thì một nhóm nhỏ trong số họ đang trốn trong một cửa hàng rau qủa.
Tiểu thuyết gốc đã châm biếm những hành động phi lý của những người mộ đạo, thể hiện qua nhân vật Carmody, người đã tạo ra một giáo phái theo chủ nghĩa tận thế dựa trên những lời tiên tri trong kinh thánh. Bà ta tạo ra một giáo đoàn và trở nên cuồng loạn, một vài nhân vật khác thì cố trốn thoát trong một chiếc SUV, dự định sẽ lái đi ra khỏi thị trấn trước khi những con quái vật kéo đến. Một người trong số họ đã giết Carmody, triệu tiêu giáo đoàn của bà ấy rồi bỏ đi, mặc dù một người trong số họ, Ollie Weeks, vẫn bị bọn qúai vật giết hại.
Câu truyện này có 2 vấn đề khi xét đến việc tuyên truyền. Thứ nhất: nó khiến người đọc tin rằng những thí nghiệm quân sự sẽ mang lại những hậu quả khủng khiếp đến cho người dân. Thứ hai: nó khiến người đọc nghĩ không tốt về tôn giáo. Chính phủ không muốn người dân sẽ đề nghị đóng cửa những cơ sở nghiên cứu hay cắt giảm ngân sách cho quân đội. Những người (ủng hộ tôn giáo) đang kiểm soát chính phủ không muốn tôn giáo bị xem như một thứ lỗi thời.
Thế nên họ đã “sửa” lại nó bằng 2 cách:
Đầu tiên, thay vì để câu chuyện kết thúc ở cảnh chiếc xe chìm dần vào màn đêm (chi tiết trong tác phẩm gốc khiến tôi nhớ về Dylan Thomas và để lại một ấn tượng sâu sắc với tôi, một việc mà hiếm khi những tác phẩm của King làm được), Darabont đã cho nhân vật chính giết người yêu và đứa con duy nhất của họ để để tránh bị rơi vào tay bọn quái vật. Anh đang định tự tử theo vợ con thì…
Sự thay đổi này trừng phạt nhân vật chính bởi vì anh không tin vào những người giảng đạo, việc anh chế nhạo những lời tiên tri và không tin vào khả năng tự giải quyết vấn đề của chính phủ. Trong truyện gốc thì King cũng đã giết luôn thủ phạm sát hại Carmody, có thể không phải là để trừng phạt, mà bởi vì anh ta vốn là một kẻ xa lạ và hoàn toàn có thể bị đem ra làm vật thế mạng.
Tiếp theo, để đập tan những nghi ngờ của công chúng về chính phủ, quân đội Mỹ kéo đến, tiêu diệt những con quái vật sử dụng súng đạn, bom, súng phun lửa, xe tăng và nhiều thứ khác. Thấy chưa! Quân đội Mỹ có thể tự mình giải quyết những hậu quả mà nó gây ra! Hãy chờ đợi và tin tưởng!
Nhân vật chính đã đánh mất niềm tin dẫn đến việc anh ta đã giết bạn gái và con của mình. Nếu anh ta có niềm tin, họ sẽ được hạnh phúc, vui đùa dưới ánh nắng và ngắm nhìn những con tôm hùm khổng lồ bị nướng chín bởi napalm.
Thay vì một câu chuyện khuyên chúng ta nên cẩn thận khi làm những thứ chưa rõ ràng, thì nó lại trở thành một câu chuyện để thoã mãn những kẻ hiếu chiến và khẳng định lại thuyết chính thống của tôn giáo!
Bạn có thể thấy qua ba ví dụ trên rằng những chi tiết nhỏ có thể thay đổi một cách sâu sắc cách diễn đạt và những tư tưởng mang đến cho người xem.
Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về việc bộ não của mình đã bị thao túng như thế nào để tin vào những thứ muốn được tin tưởng thì tôi có khuyến nghị vài quyển sách:
– The Gutenberg Galaxy của Marshall McLuhan
– Understanding Media của Marshall McLuhan
– Manufacturing Consent của Noam Chomsky và Edward S. Hermann (tôi chưa đọc hết)
– Prophets of Deceit của Leo Lowenthal và Nobert Gutman (tôi chưa đọc)
– How to read Donald Duck của Arield Dorfman và Armando Mattelart
– Selling Apartheid của Ron Nixon (tôi chưa đọc)
Phụ lục:
Một bằng chứng nữa cho thấy Goebbels đã đúng đó là câu nói nổi tiếng của ông:
“Một điều dối trá được nói ra thường xuyên sẽ trở thành sự thật.”
Nhưng nó lại bị gán cho V. I. Lenin, bạn tìm thấy nó dễ hơn là câu nói gốc.
