Trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Nhật Bản trở thành một căn cứ hậu cần khổng lồ của Hoa Kỳ, nơi cung cấp một số vũ khí, thiết bị quân sự, các dịch vụ bảo trì, sửa chữa… Nhật Bản cũng là nơi mà các đơn vị Hoa Kỳ và khối Liên hiệp Anh sử dụng làm nơi xuất phát tấn công, nơi nghỉ ngơi và tái trang bị, chuẩn bị cho những trận đánh tại Triều Tiên. Thế thôi, hay còn gì nữa? Người Nhật có tham chiến ở Triều Tiên không?
Chuyến phiêu lưu bất đắc dĩ
Có đấy, dù chỉ là những trường hợp nhỏ lẻ: Có những người Nhật làm thuê cho các căn cứ Mỹ (họ làm lái xe, nấu ăn, thợ máy, người trông coi nhà cửa…), một ngày nào đó ông chủ Mỹ bảo họ:”Chuẩn bị đi công tác với tôi”. Thế là họ sang Triều Tiên. Ban đầu họ vẫn làm những công việc như khi ở Nhật, nhưng rồi tình hình chiến sự diễn biến nhanh đến không ngờ, họ cũng phải chịu chung số phận như các ông chủ, bị quân Bắc Triều Tiên và Trung quốc tấn công…
Thế là họ được phát quân phục và vũ khí để chiến đấu. Không may, có vài người bị đối phương tóm được, thế rồi báo chí, đài phát thanh của Liên Xô, Trung quốc, Bắc Triều tiên làm ầm lên rằng “có khoảng tám ngàn quân Nhật tham chiến”, rằng “đây là sự phục hồi của chủ nghĩa phát xít Nhật…”
Hoảng quá, chính phủ Mỹ lệnh cho các đơn vị Mỹ phải ngay lập tức lập danh sách những người Nhật trong đơn vị mình – tổng số khoảng 120 người – và trả về Nhật càng sớm càng tốt. Khi đến Nhật, họ vẫn được cho làm việc tại các căn cứ Mỹ nhưng cấm tuyệt đối không để lộ cho ai biết về chuyến phiêu lưu bất đắc dĩ của minh. Họ là những người may mắn, so với những người đã bỏ mạng.
Các “cựu samurai”
Sự xuất hiện của những người Nhật nói trên không nằm trong chủ trương của chính phủ Mỹ. Thế nhưng, liệu chính phủ Mỹ có lúc nào đó chủ trương đưa các cựu binh của quân đội Thiên hoàng sang Triều Tiên không? Có đấy. Suy cho cùng, sự tham gia này cũng là một di sản của Thế chiến II.
Sau khi Nhật đầu hàng, tất cả các lực lượng của Lục quân và Hải quân Đế quốc Nhật Bản đều được giải thể, binh sĩ được cho về nhà làm ăn. Tuy nhiên, không phải tất cả đều được về nhà. Trong chiến tranh Mỹ đã thả quá nhiều mìn xuống các cảng, tuyến đường biển trong lãnh hải Nhật nên lực lượng vét mìn của Hải quân Đế quốc được giữ lại để dọn sạch tất cả số mìn đó.
Khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Mỹ sực nhớ đến lực lượng này. Lúc đó, Nhật sở hữu 84 tàu vét mìn và đội thủy thủ được đào tạo kỹ lưỡng, có 5 năm kinh nghiệm trong công tác này.
Tháng 10/1950, tướng Mac Arthur bí mật chỉ đạo cho phía Nhật (lúc ấy Nhật thuộc quyền kiểm soát của Mỹ) điều các đội tàu vét mìn và tàu hỗ trợ đến dọn mìn tại các khu vực tiếp cận bờ biển Triều Tiên.
Phía Nhật không có cách nào khác hơn là phải chấp hành. Phía Mỹ thông báo rằng các tàu vét mìn Nhật Bản sẽ thuộc sự chỉ huy của Tư lệnh Hạm đội 7 Hoa kỳ, toàn bộ tàu tham gia nhiệm vụ trong vùng biển Triều Tiên sẽ treo cờ quốc tế “Echo” đã sửa đổi, số trên cờ hiệu phải xóa đi.
Nghe thông báo đó, các thủy thủ nghi ngờ, lo lắng và sợ rằng đây không đơn giản là tháo dỡ mìn mà là tham gia Chiến tranh Triều Tiên, là vi phạm hiến pháp Nhật. Họ không muốn liều mạng ở chốn nguy hiểm, đi đánh giặc cho nước khác, trong khi theo hiến pháp mới, nước Nhật đã từ bỏ chiến tranh. Hơn nữa họ không còn là lính mà là những công dân tự nguyện lao động gỡ mìn trong lãnh hải Nhật Bản vì sứ mệnh tái thiết nước Nhật.
Để trấn an các thủy thủ, các giới chức Mỹ và Nhật Bản giải thích rằng họ phục vụ là phục vụ cho Liên Hợp Quốc, chứ không phải cho Mỹ hay Nam Triều Tiên (lúc ấy Mỹ can thiệp vào Triều Tiên dưới cái ô Liên Hợp Quốc) và để ngăn chặn ảnh hưởng cộng sản.
Dù muốn dù không thì các thủy thủ cũng đều phải lên tàu đến khu vực cảng Wonsan phía đông Triều Tiên để làm nhiệm vụ. Theo ước tính, khoảng 1.200 thủy thủ Nhật Bản, phần lớn là cựu binh của Hải quân Đế quốc, đã tham gia các hoạt động vét mìn trong chiến tranh Triều Tiên dưới sự chỉ đạo của Mỹ từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1950. Trong thời gian này, một chiếc tàu đã bị trúng mìn, phát nổ và chìm tại cảng Wonsan, 1 thủy thủ chết, 18 người bị thương.
Họ đã vét mìn tại các cảng Wonsan, Inchon, Haiju, Chinnapo, Mokpo, Masan, Pusan, và Chinhae. Theo báo cáo của Hải quân Mỹ thì đội tàu vét mìn của Nhật “đã khắc phục những khó khăn về thời tiết, về tiếp tế, sự khác biệt ngôn ngữ…để hoàn thành tốt công việc”.
Ngoài đội tàu vét mìn trên đây, Mỹ cũng huy động các tàu vận tải. Khi Thế chiến 2 kết thúc, tướng Mac Arthur đã nắm quyền kiểm soát đội tàu buôn của Nhật Bản, trong đó có các tàu đổ bộ LST mà Mỹ cho mượn để để đưa người Nhật hồi hương.
Khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, nhiều tàu LST và các tàu vận tải khác cùng với thủy thủ đoàn Nhật Bản đã được quân đội Hoa Kỳ trưng dụng để vận chuyển quận đội Mỹ trong các cuộc hành quân đổ bộ, chở hàng tiếp tế, họ cũng tham gia vận chuyển binh sĩ và dân thường trong cuộc triệt thoái từ cảng Hung Nam ở Bắc Triều Tiên về Busan ở Nam Triều Tiên. Dĩ nhiên trong số các thủy thủ này cũng có nhiều cựu binh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Như vậy, dù với quy mô nhỏ và thời gian ngắn nhưng các “cựu samurai” cũng đã tham gia chiến tranh Triều Tiên, tất nhiên là với tâm trạng bất đắc dĩ.
Vì xảy ra sau Thế chiến II (là cuộc chiến toàn cầu) và trước chiến tranh Việt Nam (là cuộc chiến được biết đến nhiều do sự phát triển của các phương tiện truyền thông) nên chiến tranh Triều Tiên ít được biết đến, nó có tên là cuộc chiến bị lãng quên (the forgotten war). Thế nên không có gì lạ khi câu chuyện về các samurai và sứ mệnh bất đắc dĩ này cũng sớm rơi vào quên lãng.