TRUYỆN LI KÌ: CÁ QUỶ – P4 + 5/5

Hai con Cá Quỷ khi vừa bắt về nhà tôi, Mã Tư Kì cứ nghĩ đây là hai cha con. Vài ngày sau, Mã Tư Kì mới phát hiện trước ngực con Cá Quỷ lớn có treo hai bầu vú, hóa ra đây là một con Cá Quỷ cái.

   Con Cá Quỷ mẹ chết mất đứa con trai, ngày đêm than khóc, nước mắt rơi xuống đều hóa thành dạ minh châu long lanh. Mã Tư Kì và cha tôi nhặt bỏ vào trong một cái giỏ, giấu xuống gầm giường.

   Tin tức trên Nghi Hà bắt được cá quỷ không cánh mà bay rất xa, vốn tin này đã lắng xuống, nay lại bắt đầu rộn ràng trở lại. Nhà nhà đều kéo thuyền xuống sông, trở lại nhịp tìm kiếm nhộn nhịp trước đây. Nhưng người trong thôn làm gì được chuyên nghiệp như những người kia, bảo họ đi đâu mà tìm Cá Quỷ bây giờ? Nhưng cũng có những người may mắn, trong lúc thả lưới dưới Nghi Hà nhặt được vài viên dạ minh châu.

   Người nhặt được châu sung sướng trở về nha, người không nhặt được châu thì ra sức tìm kiếm mò vớt. Khoảng thời gian ấy thường nhìn thấy cảnh một đám người vì tranh nhau một cục đá, một viên ngọc trai mà đánh nhau đến sứt đầu mẻ trán. Đợi đến khi nhìn rõ thứ trong tay, bọn họ mới đỏ mặt mà xin lỗi nhau.

   Nhưng điều khiến ông cố tôi tương đối yên lòng là, cha tôi không xuống sông nữa. Lúc không có việc gì cũng không đi với đám người bên ngoài tới kia nữa. Ông cố tôi kêu cha đi nghe ngóng, ổng cũng không đi.

   Cha tôi nói ổng ngốc nghếch, sợ lỡ miệng nói việc Cá Quỷ ở trong nhà ra mất.

   Ông cố tôi nghe cha tôi nói vậy, vui vẻ nói: “Được, thằng này khá, mẹ mày mau bao nhiêu đồ ăn ngon cho mày như vậy đúng là không uổng phí. Bắt đầu có đầu óc rồi đây.”

   Được ông cố khen ngợi, cha tôi tưởng như sướng đến phát điên luôn.

   Mã Tư Kì nói với cha tôi: “Ông nội mày nói vậy là đang chê cười mày đó, ngồi đó mà vui mừng cái gì?”

   Mã Tư Kì gả cho ông nội tôi, sinh ra cha tôi nhưng vẫn xinh đẹp như hoa, không thiếu người theo đuổi. Nhưng Mã Tư Kì tương đối an phận, một lòng vì ông nội và cha tôi, ngày tháng đều trải qua rất tốt.

   Đối với ông cố tôi thì càng không phải nói, lòng hiếu thuận của Mã Tư Kì, ông cố tôi vẫn luôn nhớ trong lòng.

   Mã Tư Kì không những đảm đang, hiếu thuận mà còn rất lương thiện, từ thái độ của bà với Cá Quỷ có thể nhìn ra được. Con Cá Quỷ ấy ở nhà tôi khóc mấy ngày, không ngờ Mã Tư Kì lại khuyên nhủ được.

   Mã Tư Kì nói với Cá Quỷ: “Mày chỉ khóc chẳng được gì đâu, dù sao con mày cũng chết rồi, mày khóc lóc như vậy có thể khiến nó sống lại không? Mày phải nghĩ cách trả thù cho con trai màu, mày phải nghĩ cách khiến những người giết con trai mày phải trả giá.”

   Mã Tư Kì vỗ vai Cá Quỷ nói: “Mày phải kiên cường lên, ngày nào cũng khóc lóc thế này, làm sao hợp với hình ảnh xấu xí của mày được.”

   Việc cuối cùng Cá Quỷ bị Mã Tư Kì khuyên bảo khiến cha tôi không vui chút nào. Ổng nói: “Mẹ, mẹ khuyên Cá Quỷ như vậy, nó không khóc nữa thì nhà mình không có dạ minh châu mà nhặt nữa đâu.”

   Mã Tư Kì nói với cha tôi: “Không thu được nữa thì thôi, nó cứ khóc mãi như thế, khóc đến chết ở nhà chúng ta rồi sao?”

   Khuyên Cá Quỷ xong, Mã Tư Kì lại thương lượng với nói: “Con trai mày ôm thế này hoài không được, thối cả thịt ra rồi. Chúng ta thấy hôi thối là chuyện nhỏ, nhưng lỡ mùi hôi này truyền ra ngoài, khiến người khác chú ý, chúng ta không phải uổng công cứu mày sao? Con mày đưa cho tao, tao giúp mày mang đi chôn. Chúng ta không ăn đâu, mày yên tâm, nha!”

   Mã Tư Kì vừa khoa chân múa tay vừa nói, cuối cùng thuyết phục được Cá Quỷ mẹ giao con nó ra, chôn dưới gốc cây lớn bên ngoài nhà chúng tôi.

   Sau khi chôn Cá Quỷ con, Cá Quỷ mẹ bắt đầu chịu ăn uống. Nhưng mà kiểu ăn này khiến Mã Tư Kì chịu không nổi. Bởi vì thời đó nghèo, kiếm đủ ăn cho người trong nhà là đã rất tốt rồi, con Cá Quỷ này ăn uống còn rất kén chọn, rất thích ăn cá.

   Mã Tư Kì phiền lòng mấy ngày liền không ngủ được, mãi đến khi cha tôi nhắc nhở: “Nó không phải khóc ra một đống dạ minh châu sao, mẹ đem ra chợ đêm mà bán,”

   Mã Tư Kì nửa đêm bê một túi hạt châu, muốn đi chợ đêm bán châu, nhưng bị ông nội tôi cản lại. Ông nội hỏi: “Bà đem nhiều hạt châu thế này đi đâu?”

   Mã Tư Kì bảo đi bán.

   Ông nội lại nói: “Bà đi bán châu mà mang nhiều thế này? Nếu như đám người bên ngoài tới kia nhìn thấy thì sao?”

   Nghe ông nội nói thế, Mã Tư Kì cũng sợ, hỏi ông nội bây giờ phải làm sao? Ông nội nói: “Bà vào nghỉ đi, tôi đi bán giúp bà.” Nói xong, ông nhón tay nhặt lấy hai hạt châu mang đi.

   Ông nội tôi đoán quả không sai, ở chợ đêm quả nhiên gặp đám người kia. Bọn họ dáng vẻ lén lén lút lút, âm thầm quan sát từng người một. Ông nội lặng lẽ bán hai hạt châu được năm đồng rồi vội vàng đi về.

   Mã Tư Kì cầm tiền thì vui mừng vô cùng, bà không ngờ hạt châu này lại có giá như thế. Bà ấy mà biết hạt châu của người khác đều bán mười đồng một hạt chắc đau lòng chết mất.

   Ông nội tôi đưa tiền cho Mã Tư Kì xong thì lập tức đi tìm ông cố tôi bàn bạc đối sách, nói về chuyện gặp đám người kia ở chợ đêm. 

   Ông cố tôi nói với ông nội: “Đám người kia tìm tao mấy lần rồi, lần nào tao cũng nói không biết không rõ. Bọn họ cũng nghi ngờ nhưng không có chứng cứ, nhưng mấy hôm nay bọn chúng cũng không hề nghỉ ngơi, vẫn bận rộn ở Nghi Hà suốt.”

   Việc mà đám người này bận rộn mấy nay tăng cấp rồi. Lần này chúng không rải thức ăn nữa, nhưng sáo thì vẫn thổi. Bọn chúng vừa thổi sáo vừa múa trên thuyền, khó coi chết đi được.

   Ông nội tôi hỏi: “Bọn họ lần này múa ra sao? Đẹp không?”

   Ông cố trừng mắt nói: “Tao không phải vừa nói với mày sao? Khó coi muốn chết, còn hỏi gì mà hỏi nữa.”

   Sau đó ông cố tôi kể tiếp: “Sau khi đám người đó múa xong, từng người một bắt đầu cắt tay, rải máu trên người họ xuống sông, cũng chẳng biết là muốn làm gì nữa. Đây là máu người đó, khiếp thật chứ! Lỡ như Cá Quỷ không xuất hiện mà dụ thứ nào đó ra thì phiền phức lớn chứ tưởng.”

   Điều khiến ông cố tôi không ngờ tới là, lời nói của mình lại như tiên tri vậy. Máu của đám người kia không ngờ lại dẫn dụ thứ khác đến.

   Thứ đầu tiên bọn họ dụ tới là một con rắn lớn, đây là con rắn lớn nhất ông cố tôi từng trông thấy. Hai con mắt nó quả thực như hai cái đèn lồng. Ông cố tôi bảo, nó ít nhất phải dài đến hai mươi mét.

   May là con rắn đến bơi quanh một vòng rồi đi, nhưng nó lượn dưới nước thôi mà cũng đã làm lật mất mấy cái thuyền nhỏ. Không chỉ ông cố tôi sợ mà đám người kia có lẽ cũng sợ khiếp. Sau khi con rắn kia đến, bọn họ nghỉ mấy ngày liền không dám ra sông.

   Thứ tiếp theo bị dụ đến, không ai nhìn rõ nó là thứ gì, sau khi đến cũng lượn lờ một vòng, làm lật một chiếc thuyền nhỏ, cắn chết hai người rồi bơi đi.

   Sau khi thứ đó đi, đám người kia cũng nghỉ mấy hai ngày. Lần nghỉ này ngắn như vậy, ông cố tôi đoán, bọn họ có lẽ sẽ có động thái mạnh mẽ hơn,

   Quả nhiên đám người kia không biết từ đâu kiếm về được nào là súng, nào là nỏ. Chuẩn bị xong, bọn họ tiếp tục xuống Nghi Hà tìm bắt, có điều thứ tiếp theo đến không hề tầm thường.

   Vào một buổi tối nọ, đám người kia vẫn như mấy hôm trước, ca hát nhảy múa, cắt mạch nặn máu. Lúc rải được một nửa, bóng đêm bỗng trở lên vô cùng đen đặc. Người phụ nữ cầm đầu còn thắc mắc nói, sao đột nhiên lại trở lên tối như vậy.

   Bà ta ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy một màn đen đặc không thấy được bất cứ thứ gì, một ngôi sao cũng không có, đến cả mấy thứ bên bờ Nghi Hà cũng không thấy nốt. Tên thuộc hạ từng dọa dẫm ông cố tôi còn hỏi, phải chăng trời âm u sắp mưa.

   Người phụ nữ lắc đầu nói: “Gần đây trời không có mưa. Hơn nữa hôm nay ngày nắng, đúng ra giờ trên trời phải có trăng chứ nhỉ?” Nói đến đây, bà ta nghĩ ngợi, bóng tối này có chút kì quái, liền sai thuộc hạ đi về lấy súng.

   Tên thuộc hạ nhìn người phụ nữ cầm đầu: “Chị đại, nhiều súng như vậy, em một mình vác không nổi, hay là hai chúng ta cùng nhau đi.”

   Bà ta nghĩ ngợi, cũng có lỹ, thế là dặn dò mấy người ở lại một hồi, dẫn thêm hai tên nữa đi về lấy súng. Nhưng điều khiến bà ta không ngờ rằng, chỉ trong thời gian bà ta về lấy súng ngắn ngủi ấy đã xảy ra một biến cố vô cùng lớn.

   Sau đó bà ta mới sợ hãi nghĩ lại, nếu không phải tự mình quay về lấy súng, chắc chắn cũng đã xảy ra chuyện rồi. Nhưng dù vậy, người phụ nữ đó cũng bị thương nặng, hơn nữa trong đám người ấy, cũng chỉ còn bà ta là may mắn sống sót.

   Nói về chuyện này, cả quá trình cũng chính ông cố tôi là người chứng kiến toàn bộ.

   Theo lời ông cố tôi, chính vào lúc bà ta dẫn hai thuộc hạ rời khỏi, bờ Nghi Hà trở lên đen đặc hơn bao giờ hết, ở trong bóng đêm này, từ xa xa phía Bắc có vài ánh đèn từ từ tiến lại.

   Có lẽ là do xa quá, ánh đèn đó nhìn lốm đốm như ánh sao, không hề gây chú ý. Nhưng chẳng mấy sau, mấy đốm sáng đèn đó từ từ trở lên rõ hơn, giống như hiện lên từ một bức tranh.

   Lúc đó ông cố tôi đang lười nhác dạo chơi, bỗng nhiên ông thấy mấy ánh đèn đó, ngơ ra một hồi, đột nhiên nghĩ gì đó muốn quay người rời khỏi. Không ngờ mấy ánh đèn đó đã đến gần tới rồi. Ông cố tôi không thể nào ngờ được, mấy thứ này sao lại nhanh như vậy. Ông cố còn nghĩ chắc là một loại chim hay gì, nhưng khi thứ đó đến trước mắt, ông cố mới phát hiện đó không ngờ lại là đèn lồng.

Hơn nữa đó không phải một cái đèn lồng mà là hai hàng, hai hàng đèn lồng đỏ, Mỗi cái đèn ít nhất phải dài cả nửa mét, mỗi ngọn đèn đều được một người mặc áo dài màu đen cầm trong tay.

   Loại áo màu đen này rất dài, che kín hết đầu mặt, thậm chí cả chân tay của bọn họ. Hơn nữa bọn họ đều cúi đầu, trong bóng đêm nhìn không rõ mặt. Khiến ông cố tôi kinh sợ nhất là, bọn họ xách đèn lồng đỏ, từng bước từng bước đi trên mặt nước, từ từ tiến về phía trước.

   Thực tế là không phải chỉ mỗi ông cố tôi nhìn thấy cảnh tượng kinh dị này mà cả đám người thổi sáo cắt máu trên thuyền cũng thấy. Bọn họ không hiểu cảnh tượng đang diễn ra trước mắt là gì. 

 Sự ngạc nhiên nhanh chóng bị cảm giác kinh hoàng thay thế. Đám người trên thuyền vội vàng chèo vào bờ, nhưng càng khiến bọn họ kinh hoảng hơn là, cho dù họ có dùng sức đến thế nào, chiếc thuyền đều dường như đã bị đông cứng lại tại chỗ, không hề động đậy nửa phân.

   Lúc này, những người cầm đèn lồng cũng từ từ dừng bước. Sau khi những người này dừng lại, họ không có hành động gì thêm, chỉ lẳng lặng đứng đó, đầu hơi cúi xuống, thân hình thẳng tắp, đến đèn lồng trong tay cũng không hề lay động. Lúc này, gió trên sông Nghi Hà như bị bóng tối hai bên bờ giam cầm. Bị ảnh hưởng bởi điều này, ông cố tôi cảm thấy đến hít thở dường như cũng khó khăn hơn.

   Sau khi những người mặc áo dài đen cầm đèn lồng kia xuất hiện, đám người trên thuyền ai nấy đều cảm thấy vô cùng bất an. Chạy thì chạy không nổi rồi, nhưng cũng không biết những người áo đen kia rốt cục muốn làm gì.

   Trong bóng tối hai bên bờ, không khí dường như đã đông đặc lại, hơn nữa lại thêm những người áo dài đen trầm mặc không nói câu nào, áp lực cực kì lớn. Đến ông cố tôi cũng cảm thấy bất an cực độ.

   Thời gian dường như ngừng lại, ông cố nói ông dường như nghe rõ từng nhịp tim đập binh binh trong lồng ngực.

   Vào đúng lúc ông cố tôi cảm thấy gần như đã chịu hết nổi nổi thì bỗng nhiên ở phía bắc nhưng người cầm đèn lồng vang lên tiếng nước, có một vài người mặc đồ đen khác đang khiêng một cái kiệu lớn, từ từ đi đến.

   Những người khiêng kiệu ăn mặc giống y như người cầm đen lồng, cũng đều hơi cúi đầu. Điều khác biệt duy nhất là, bọn họ lộ ra một cánh tay vô cùng trắng đang khiêng kiệu.

   Mấy người này khiêng kiệu đi vào giữa hai hàng người cầm đèn lồng, nhìn thấy mấy chiếc thuyền nhỏ trên sông cũng dừng lại. Trên kiệu truyền đến một giọng nói thấp trầm: “Có chuyện gì vậy?”

   Một người áo đen khiêng kiệu cúi thấp đầu nói, đây là đám người bắt Cá Quỷ. Giọng nói của người này vô cùng quỷ dị, nghẹt nghẹt nghe giống như âm thanh truyền tới từ phòng bên cạnh, vô cùng không chân thực.

   Người này nói xong, giọng nói trầm mặc lại cất lên: “Cá Quỷ là thứ để cho bọn chúng bắt sao?”

   Người cúi đầu đáp: “Hiểu rồi ạ, đại nhân.”

   Câu này vừa nói xong, ông cố tôi căn bản còn chưa kịp hiểu đã xảy ra chuyện gì, những người trên thuyền đã lũ lượt đứng hết dậy, dường như bọn chúng không biết chuyện gì đang xảy ra, từng người một cúi đầu, hạ hai tay xếp thành hai hàng. Hai hàng người đứng quay mặt vào nhau tự động lùi lại vài bước nhường chỗ cho những người mang đèn lồng và kiệu.

   Mà nơi bọn chúng lùi lại để đứng kia, chính là mặt sông Nghi Hà.

   Xong xuôi đâu đấy, người đàn ông áo dài đen cúi đầu chắp tay nói: “Đi”.

   Những người khiêng kiệu và người mang đèn lồng tiếp tục đi trên mặt sông Nghi Hà xuôi về phía nam. Đám người nơi khác đến kia, sau khi những người áo dài đen khiêng kiệu và mang đèn lồng bước đi thì nối gót đi theo họ thành hai hàng.

   Đúng lúc này, người phụ nữ cầm đầu và hai thuộc hạ cầm súng quay lại. Nhìn cảnh tượng này, bà ta ngẩn người một chút rồi quát lớn: “Các ngươi đang làm gì vậy?”

   Người phụ nữ nọ kêu lên nhưng những người đi trên nước căn bản là không thèm để ý đến sự ngăn cản của bà ta. Thấy những người kia không để ý đến mình, hổ quá hóa thẹn, cầm súng lên hướng về phía những người kia hỏi: “Các người rốt cục là ai? Trả lời đi!”

   Không cần nói đến người cúi đầu dẫn đường, ngay cả những người cầm đèn lồng và người nâng kiệu cũng không thèm nhấc mí mắt lên một cái, đương nhiên, người phụ nữ kia không nhìn thấy mí mắt của bọn họ (^^). Những người này cứ đường mình mình đi, bước chân không nhanh hơn chậm hơn chút nào cả.

   Người phụ nữ lại gọi những thuộc hạ của bà ta: “Vương Tiểu Nhị! Đồng Nhị Kim! Lý Đại Đồng!” Điều khiến bà ta không ngờ là, những người kia cũng cứ thế đi, không ngẩng đầu không nói chuyện, cũng không thèm ngoái lại một cái.

   Bà ta lần này thật sự phẫn nộ, nâng súng lên chĩa vào đám người khiêng kiệu, hét lớn: “Dừng lại! Không dừng ta sẽ nổ súng!”

   Ông cố tôi đang nằm bò núp sau bụi cỏ cũng lo lắng thay cho bà ta, trong lòng nghĩ không biết gặp phải thứ gì rồi, đừng có làm ầm lên nữa. Ông cố tôi nhìn bà ta nâng súng lên, còn nghĩ bà ta chỉ đe dọa thôi, đang tính bò lại nhắc nhở vài câu, ai ngờ bà ta nâng súng lên là bắn liền.

   Không chỉ bà ta bắn súng, hai tên thuộc hạ đi theo bà ta cũng đồng thời nhả đạn, vừa bắn vừa chửi. Lần này ông cố tôi sợ thật rồi. Ông cố tôi không phải chưa thấy súng, năm đó khi các phe phái đánh nhau, ông cố tôi còn theo ông tổ ra chiến trường, cảnh tượng đó thì… hầy hầy…

   Nhưng ông cố tôi chưa bao giờ thấy cảnh thế này, nói vài câu không được liền nổ súng, đến đối phương là người thế nào cũng không rõ, hơn nữa đối phương còn đông hơn mình. Sau đó ông cố tôi đoán ra, người phụ nữ này không phải ghê gớm mà là vốn chẳng biết đám người này lợi hại ra sao, người ta không thèm nói câu nào mà đám thuộc hạ của mình đã đi theo người ta. Nếu như bà ta nhìn thấy cảnh tượng ấy có lẽ cũng chẳng dám ôm súng bắn như thế.

   Nhưng thế gian này làm gì có lắm nếu như đến thế.

   Ba người bắn đùng đoàng, hết một băng đạn lại thay băng khác. Ba người chả thèm nhìn chỉ lo bắn, đạn thì hết mà người ta chẳng sứt mẻ chỗ nào, căn bản không thèm để ý họ.

   Ánh lửa bắn ra từ những đầu đạn tạo thành những vệt sáng lòa trong bóng tối.

   Ông cố tôi đột nhiên giật mình, vì những người cầm đèn lồng và khiêng kiệu kia bị làm phiền, người cúi đầu liếc mắt nhìn ba người cầm súng một cái. Chỉ với một cái liếc mắt, hai tên thuộc hạ của người phụ nữ nọ vứt súng, ngây ngốc đi về phía hàng người nọ, nối vào đuôi hàng ngũ đó tiến về phía trước.

   Người phụ nữ đó đúng lúc người cúi đầu kia liếc mắt về phía này thì cúi xuống thay băng đạn. Lúc ngẩng đầu lên đã thấy hai tên thuộc hạ bên cạnh mình đi mất rồi. Bà ta ngây người, hét theo hai tên kia mấy tiếng, hai người nọ không phản ứng gì, ngây ngốc đi phía sau hàng người, từ từ tiến về phía trước.

   Người phụ nữ cầm đầu còn muốn bắn tiếp nhưng đột nhiên phát hiện trước ngực mình lạnh toát, cúi đầu xuống nhìn, không biết trước ngực từ khi nào đã có mấy vết thương, máu đỏ đang từ đó chảy ào ào như suối. Lúc này bà ta mới đột nhiên cảm thấy dường như tất cả sức lực của mình đã bị rút cạn, toàn thân bỗng mềm oặt, đổ vật xuống.

   Ý thức cuối cùng của người phụ nữ đó là khi bà ta nhìn thấy, tất cả thuộc hạ của mình đều đi theo đám người áo dài đen kia từ từ biến mất trên mặt sông Nghi Hà.

   Người phụ nữ đó tỉnh dậy là là mấy ngày hôm sau. Bà ta muốn động đậy một chút nhưng cảm thấy hình như không còn chút sức nào. Thân thể mềm oặt vô lực thì thôi đi, hơn nữa ngoài đầu ra thì các nơi khác đều bị quấn bông băng.

   Bà ta muốn ngồi dậy nhưng làm gì ngồi dậy được nên chỉ đành đưa mắt quan sát môi trường xung quanh. Xung quanh bà ta là vách tường của một ngôi nhà tranh, mái nhà được chằng bằng cọc sậy, các cửa sổ nhỏ che bằng bốn mảnh kính. Đồ đạc trong phòng không có gì ngoài cái giường và cái bàn đã cũ.

   Người phụ nữ cầm đầu đám người bên ngoài tới bắt Cá Quỷ không biết sao mình tới đây và tới khi nào. Ấn tượng cuối cùng của bà ta là mình nhìn đám thuộc hạ đi xa dần.

   Khi người phụ nữ nọ đang thăm dò mọi thứ xung quanh, bên ngoài vang lên tiếng nói chuyện, giọng nói vừa quê vừa vang, hình như là giọng của hai người đàn bà. Hai người nọ nói một lúc lâu, một người rời đi, sau đó vang lên tiếng bước chân, cửa phòng bị đẩy ra. Một người phụ nữ thanh tú bước vào, nhìn thấy bà ta tỉnh rồi thì cười nói: “Chị tỉnh rồi à? Bốn ngày rồi đấy, chị chờ ở đây, tôi đi gọi người.”

   Người phụ nữ kia ra ngoài gọi ầm ỹ: “Tỉnh rồi tỉnh rồi, mau đến đây, tỉnh rồi.” Sau đó bên ngoài vang lên tiếng bước chân ồn ã. Người phụ nữ cầm đầu nọ chỉ thấy lần lượt từng người tiến nào, đầu tiên là một người đàn ông trung niên đầu tóc lộn xộn, sau đó là một thằng nhóc 14 15 tuổi, sau cùng là một ông lão đầu bạc.

   Người đàn ông trung niên đầu tóc lộn xộn là ông nội tôi, thằng nhóc 14 15 tuổi là cha tôi, còn ông già đầu bạc là lão Hạ. Người phụ nữ kia đương nhiên là bà nội Mã Tư Kì của tôi.

   Mã Tư Kì càm ràm: “Mau, đi gọi ông nội đi.” Sau đó tiếng bước chân vang lên, người phụ nữ cầm đầu kia biết có người lại chạy ra ngoài rồi.

   Mã Tư Kì đến gần nhẹ nhàng hỏi có phải bà ta đói rồi không, rồi lại hỏi có khát không. Nữ cầm đầu muốn nói gì đó, nhưng cảm thấy cổ họng đau buốt, không thể nào nói được. Mã Tư Kì nghĩ ngợi một chút rồi ra ngoài rót một chén nước đút cho bà ta.

   Người phụ nữ cầm đầu đám người kia uống nước rồi, mới hỏi: “Đây là đâu?”

   Mã Tư Kì cười hào sảng nói: “Đây là nhà chúng tôi.”

   “Đây là nơi nào?”

   Mã Tư Kì lại cười nói: “Đây là nhà chúng tôi, không phải nói với chị rồi sao?”

   Người phụ nữ cầm đầu cảm thấy đầu óc mù mịt, lại hỏi: “Cụ thể là nơi nào?”

   Mã Tư Kì ha ha cười ầm lên: “Đây là phòng phía nam nhà chúng tôi.”

   Nghe trả lời xong, người phụ nữ cầm đầu cảm thấy không cần hỏi tiếp nữa, cứ thế này kiểu gì cũng tức mà chết.

   Người phụ nữ kia không hỏi nữa, bà nội Mã Tư Kì vẫn hi hi ha ha nói không ngừng, nói may mà cha tôi gặp được chị, nếu không thì chị đã chết thảm rồi. Còn nói may mà cha tôi biết chữa bệnh, nếu không máu trên người chị đã chảy hết rồi. Tiếp tục nói, chị xem tay nghề của cha tôi, băng bó cho chị đẹp thế này, nếu không phải cha tôi băng bó cho chị thì chị xong đời rồi blo bla…

   Thôi thì thông qua lời của Mã Tư Kì, nữ cầm đầu cũng biết, vết thương trên người mình đều là do cha chị ta chữa trị cho, hơn nữa lớp băng quấn gọn gàng trên người cũng là cha chị ta quấn. Bà ta phát hiện băng bó trước ngực mình được cha chị ta thắt thành hình nơ bướm, vừa cẩn thận vừa tỉ mỉ.

   Nghĩ đến đây, người phụ nữ âm thầm thề rằng, đợi khi nào mình hồi phục rồi thì phải “xử” cha chị ta mới được. Con mẹ nói, thân thể bà đây lại bị lão ta nhìn sạch rồi, bỏ qua thế nào được?

   Khi ông cố tôi đến, người phụ nữ cầm đầu nhận ra ngay, đây chẳng phải lão già sống ở phía bắc lán trại của bà ta sao?

   Qua lời kể của ông cố tôi, bà ta biết mình vẫn đang ở đầu thôn nhỏ bên bờ Nghi Hà chứ chẳng đi đâu xa. Đúng là như lời người phụ nữ dở hơi kia nói, bà ta đang ở nhà người phụ nữ kia, phòng phía nam. Ngoài việc này, ông cố tôi còn kể cho bà ta nghe những việc đã xảy ra vài ngày vừa qua. Việc đầu tiên ông cố tôi nói với chị ta là, mấy thuộc hạ kia của chị ta, toàn bộ đều chết sạch rồi.

   Buổi tối hôm đó sau khi bà ta bị thương, mấu người áo đen khiêng kiệu và xách đèn lồng rất nhanh đã đi khỏi đó, nhanh đến mức ông cố tôi mới chớp mắt một cái đã không thấy họ đâu nữa. Hơn nữa sau khi họ rời đi, bóng tối đen đặc ở Nghi Hà cũng tan biến. Những ngôi sao trên trời, ánh đèn của thôn làng hai bên bờ sông đều có thể nhìn thấy rõ rệt. Những ngọn gió vừa rồi không thấy đâu cũng lại bắt đầu thổi về, âm thanh tiếng động cũng từ từ quay lại.

   Đợi sau khi mọi thứ hồi phục, tâm trạng vô cùng căng thẳng của ông cố tôi mới từ từ được thả lỏng. Ông cố tôi lúc này phát hiện, cả người mình đều đã ướt đẫm mồ hôi.

   Khi ông cố tôi đứng dậy nhìn về phía đó thấy người phụ nữ cầm đầu toàn thân đầy máu mới vội vàng chạy lại.

   Việc cứu chữa cho bà ta làm ông cố tôi hao tổn rất nhiều công sức. Không phải ông cố tôi ngại ngùng gì cơ thể bà ta, chẳng qua là vì vết thương của bà ta nhiều quá. Từng miệng từng miệng vết thương không biết từ đâu đến, vừa sâu vừa dài, nhìn vào mà lạnh cả người.

   Chỉ mỗi việc cầm máu đã khiến ông cố tôi vã cả mồ hôi hột. Sau khi cầm máu xong, lại đến việc băng bó vết thương. Cái khăn trải giường duy nhất của ông cố tôi bị xé ra băng bó cho bà ta. Ông cố vừa xé khăn vừa đau lòng, sau này đến thứ trải dưới thân mà nằm cũng không còn nữa rồi.

   Sau khi băng bó cho người phụ nữ xong, ông cố tôi gọi người bê bà ta vào nhà. Nhưng trong lúc mang bà ta vào nhà do di chuyển nên mấy vết thương lại nứt ra. Lại một đợt cầm máu nữa. Nhưng cũng mượn cơ hội này, ông nội tôi cũng học được cách niệm chú cầm máu của ông cố, cũng coi như một cơ hội học tập thực tế.

   Sau khi cứu được người phụ nữ cầm đầu đám người bên ngoài kia, đến sáng ngày thứ hai mọi người mới phát hiện, tất cả thuộc hạ của bà ta đều từng người từng người chết trên thuyền. Dáng vẻ những người này sau khi chết đều rất nhẹ nhàng, trên mặt còn mang theo nụ cười.

   Những thi thể này ở chỗ chúng tôi làm gây chấn động rất lớn. Trên huyện cũng cử người về điều tra, nhưng tra không ra đầu mối gì hết. Họ vào thôn nghe ngóng nhưng người trong thôn ngậm miệng rất chặt, không hở chuyện Cá Quỷ ra nửa chữ.

   Người đứng đầu trong mấy cán bộ huyện về điều tra lần này quen biết ông cố tôi, có đến tìm ông cố tôi nói chuyện mấy lần nhưng cũng không mò ra được tin tức gì nên sau khi khám nghiệm thi thể thì rời khỏi. Chỉ có điều, sau khi khám nghiệm, người cán bộ đó nói với ông cố tôi, việc này có lẽ không đơn giản như vậy, có thể sẽ mời ông cố tôi lên huyện điều tra tình hình. Ông cố tôi nói không vấn đề gì, nhất định sẽ phối hợp hết sức.

   Từ đầu đến cuối, ông cố tôi không hề để lộ việc người đàn bà và Cá Quỷ.

   Đương nhiên, tất cả đồ đạc trong lán trại của những người kia cũng bị cán bộ huyện tịch thu hết, nói là chứng cứ để điều tra.

   Sau khi người trên huyện đi, tin tức trong thôn lại không ngừng không nghỉ, hết người này đến người khác xuống sông tìm Cá Quỷ, mặc cho ông cố tôi khuyên thế nào, bọn họ đều không nghe. Cho đến ngày thứ ba sau khi người phụ nữ cầm đầu những người bên ngoài tới kia tỉnh dậy, những người mặc áo dài đen cầm lồng đèn kia mới trở lại, lại bắt đi mất mấy người tìm Cá Quỷ đang ở trên sông. Có người tận mắt chứng kiến mọi việc vào trong thôn kể lại, người tìm Cá Quỷ mới từ từ tản đi hết.

   Đương nhiên đó là chuyện sau đó rồi.

   Nghe ông cố tôi kể xong, người phụ nữ kia lẩm bẩm, chẳng lẽ đây là ý trời?

   Ông cố tôi hỏi bà ta họ tên gì, làm nghề gì, ở đâu tới, bà ta đều không muốn trả lời. Ông cố tôi không muốn ép, giao cho bà nội Mã Tư Kì chăm sóc bà ta, quay người rời đi.

   Ông cố tôi không kể với người phụ nữ kia rằng, buổi tối ông cứu người phụ nữ đó, ông cố cùng ông nội và cha tôi đã thả Cá Quỷ về lại Nghi Hà.

   Lúc thả Cá Quỷ đi, ông cố tôi đặc biệt dặn dò Cá Quỷ, dù không biết nó nghe có hiểu không, rằng thời gian này đặc biệt không được đến đây nữa.

   Có điều khiến ông cố tôi tương đối yên tâm là, con Cá Quỷ đó trước khi rời khỏi còn cúi người với ông tôi vài cái, miệng còn đớp đớp nói gì đó, chắc đại ý là hiểu lời ông cố tôi rồi. Sau khi đớp đớp mấy cái, lại cúi lưng với mấy người ông cố một cái nữa rồi nó cúi người, lặn xuống nước bơi đi mất.

   Khi Cá Quỷ đi, Mã Tư Kì rất không nỡ, bà nói rằng gần đây ở gần nhau sớm tối, tình cảm chị em đã rất mặn nồng. Ông nội tôi bực mình mắng bà: “Nếu muốn thì bà đi với nó đi.”

   Bà nội Mã Tư Kì trợn mắt lườm ông nội mắng: “Tôi biết thứ nhà ông vô tâm vô phế!”

   Người phụ nữ đứng đầu đám người kia ở nhà tôi dưỡng thương, hai tháng mới khỏi, lúc đầu ăn bánh chiên còn chê cứng, sau đó quen rồi, còn cảm thấy bánh bột chiên rất ngon. Sau khi vết thương khỏi rồi muốn vào trấn gọi điện thoại, ông nội tôi dẫn bà ta đi. Ngày thứ hai sau khi bà ta gọi điện thoại, có một chiếc xe jeep đến đón bà ta đi.

   Trước khi người phụ nữ đó rời đi đã để lại cho ông nội tôi một số điện thoại, nói sau này có việc gì thì đến Bắc Kinh tìm bà ấy. Bà ta họ Nghiêm, tên Hạc Tường. Gia đình tôi không có thói quen nhờ vả người khác, ông nội cứ nghĩ rằng cả đời này cũng không liên hệ với bà ấy, nhưng không ngờ sau này vẫn có việc cần đến. Đương nhiên, đó cũng là việc sau này.

   Người phụ nữ đó đi không bao lâu, vừa ăn Tết xong, trên huyện cử người xuống dẫn ông cố và ông nội tôi đi, nói điều tra việc gì đó. Lúc đó bà nội Mã Tư Kì khóc lóc thảm thiết lắm. Ông cố tôi bảo: “Nín đi, đừng khóc, ở nhà coi sóc nhà cửa, không đến hai tuần chúng ta về.”

   Lúc đó bà Mã Tư Kì mới đứng dậy lau nước mắt, bám lấy cha tôi nhìn theo ông cố và ông nội tôi bị giải đi.

   Nhưng mà khiến ông cố không ngờ tới là, chính là trong khoảng thời gian cha con ông nội không ở nhà, bên chỗ bà nội thật sự xảy ra chuyện.

   Sau khi họ đi, mọi việc trong nhà đều do bà nội đảm đương. Đang vào vụ xuân, bà nội Mã Tư Kì làm không hết việc, mệt nhọc không ít, thường trời chưa sáng đã dậy đi làm, tối mịt mới trở về.

   Vào một buổi tối, trời đã nhá nhem tối, Mã Tư Kì vác cuốc đi về nhà, đi đến cái ngõ gần nhà tôi, bà nhìn thấy một người đội mũ đứng ngay đầu ngõ, không hề động đậy.

   Mã Tư Kì hết hồn, vội hỏi: “Ai đó?”

   Ai ngờ bà nội Mã Tư Kì hỏi xong, người kia vẫn đứng bất động như cũ, không thèm trả lời.

   Mã Tư Kì lại hỏi tiếp hai câu, vẫn không có tiếng trả lời, bà cứ tưởng có người nhân lúc ông nội không ở nhà muốn giở trò lưu manh, liền giơ cuốc lên. Bà nội Mã Tư Kì vốn chỉ định dọa người đó, ai biết cuốc đã bổ gần tới nơi mà người đó vẫn không chút động đậy.

   Mã Tư Kì tức giận, quay cán cuốc lại đánh rơi cái mũ trên đầu người kia. Mũ vừa rơi xuống, bà đã ba hồn bảy vía bay tận mây xanh, chỉ thấy người đó có một cái đầu trơn nhẵn tròn trịa, đến cả ngũ quan cũng không có. Bà nội Mã Tư Kì sợ quá ngã bịch xuống đất, vừa lăn vừa bò về nhà.

   Về đến nhà, bà khóc rống lên ầm ỹ. Đúng lúc cha tôi tan học về, nhìn thấy mẹ ổng khóc thương tâm như vậy hỏi có chuyện gì. Bà nội Mã Tư Kì nói: “Đầu ngõ cạnh nhà mình, mẹ thấy một người, trên đầu không có mặt.”

   Cha tôi tính tình mạnh bạo, liền vào nhà lấy dao đi tìm một vòng, về nói với bà nội Mã Tư Kì: “Làm gì có ai? Có phải mẹ nhìn nhầm rồi không?” Bà nội thề thốt đủ cả, nói chắc chắn không nhìn nhầm.

   Hai người lại nói những chuyện khác, ngày hôm đó cứ thế trôi qua. Nhưng ngày thứ hai, thì bà nội Mã Tư Kì xảy ra chuyện. Lúc bà đi về cũng là buổi chiều chập choạng tối, một mình đang trên bờ ruộng về bỗng không hiểu sao lại ngã lộn vào mộ một người nào đó. Sau khi ngã xong đứng dậy, lúc về đến nhà mới phát hiện eo rất đau. Cha tôi vừa nhìn đã hỏi bà Mã Tư Kì: “Sao eo của mẹ lại có dấu tay màu đen thế này?”

   Bà nội Mã Tư Kì nói: “Mẹ không biết.” Sao lại có dấu tay màu đen được?” Nói xong còn nghĩ cha tôi nói đùa, sau đó thìm thím và cô út tôi gần đó, hai người cũng nói phía sau eo của bà có một cái dấu tay màu đen, lúc này bà nội Mã Tư Kì mới hoảng hốt lên.

   Đặt một chiếc gương phía trước một chiếc phía sau nhìn một cái, thấy sau eo quả nhiên có một dấu tay màu đen. Bà Mã Tư Kì nhớ đến việc tối nay bị ngã trên mộ, bấy giờ mới kể ra.

   Bà thím cũng sợ, hỏi có cần tìm người xem không. Bà nội Mã Tư Kì nói: “Nhà chúng tôi là người xem cái này, giờ tìm ai bây giờ?” Vậy là cũng bỏ qua, không tìm người xem giúp nữa. Nhưng chỉ mấy ngày sau, bà nội Mã Tư Kì cứ cảm thấy đau tim, ho ra vài ngụm máu rồi cứ thế mà nằm liệt giường không dậy nổi nữa. Đợi đến khi ông cố và ông nội về thì bà nội Mã Tư Kì đã sắp không xong rồi, chỉ thấy hơi thở ra mà không thấy hít vào nữa rồi.

   Ông cố vừa bắt mạch thì lập tức lạnh cả người, thầm nghĩ chết chắc rồi. Ông nội vừa nhìn sắc mặt ông cố, nước mắt đã chảy ra đầm đìa. Ông hỏi đi hỏi lại ông cố, bây giờ phải làm thế nào? Ông cố từ đầu đến cuối không nói tiếng nào, nhưng ông nội đã biết, ông cố cũng hết cách rồi.

   Buổi tối hôm đó khi đi ngủ, ông cố tôi mơ một giấc mơ. Ông mơ thấy một người phụ nữ có đuôi cá đến hành lễ với ông, nói biết được bệnh tình của em gái, đến để chỉ cách chữa trị. Nói xong, người phụ nữ mang đuôi cá kia đọc phương thuốc cho ông cố tôi.

   Ông cố tôi sau khi tỉnh dậy, phương thuốc đó vẫn còn nhớ như in trong đầu. Chỉ có một vị duy nhất, không biết là chuyện gì, vị thuốc đó gọi là Kim Ngân Hoàn.

   Cha tôi ngây ngốc hỏi, Kim Ngân Hoàn có phải là mấy viên trân châu phát sáng kia không?

   Ông cố tôi vỗ đùi cái đét, chính là nó rồi.  Ông xoa đầu cha tôi một lúc nói: “Khá, khá lắm. cháu tôi đúng không phải thằng ngốc.”

   Ông cố tôi theo phương thức mà người phụ nữ đuôi cá đó đưa, nấu thuốc rồi cho bà nội Mã Tư Kì uống. Qua ngày hôm sau, bà đã từ từ lấy lại được chút khí sắc.

   Nghe bà nội Mã Tư Kì kể chuyện hôm đó xong, ông cố nói, có lẽ là gặp phải tiểu quỷ rồi.

   Ông cố tôi làm phép bốn góc nhà, không ngờ bắt được một tên tiểu quỷ thật, hơn nữa là do người khác thả vào nhà chúng tôi. Còn rốt cục do ai thả, ông cố không biết, cũng không đi điều tra tìm hiểu thêm nữa.

   Câu chuyện về Cá Quỷ tới đây là kết thúc, sau này cũng không xuất hiện thêm lần nào nữa. Có điều, chuyện về Nghi Hà vẫn chưa hết…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *