IBRAHIM THE RED
Vào tháng 12 1831, quân đội Ai Cập hành quân qua thành phố khi người Jerusalem hạnh phúc và hớn hở chào mừng bằng ánh sáng, nhảy múa và âm nhạc trên mọi đường phố. Trong năm ngày người Hồi, Hy Lạp, Francis, Armenia và thậm chí người Do Thái liên hoan. Nhưng người Hồi lo lắng trước cảnh binh lính Ai Cập ‘mặc quần dài bó sát, mang súng cầm tay đáng sợ, nhạc khí và diễu hành theo đội hình giống như châu Âu’.
Chủ nhân ông mới của Jerusalem là quân nhân Albania Mehmet Ali, người tạo ra một triều đại vẫn còn cai trị Ai Cập khi Nhà nước Israel được thành lập hơn một thế kỷ sau. Giờ bị quên lãng, ông khống chế chính sách quốc tế vùng Cận Đông trong 15 năm và gần như chinh phục toàn bộ đế chế Ottoman. Con trai của một nhà buôn thuốc lá, ông ra đời tại vùng đất ngày nay là Hy Lạp, cùng năm với Napoleon, người đương thời xem ông như một Bonaparte Đông phương: ‘Tương tự các thiên tài quân sự lừng danh, các cá tính của những thủ lĩnh này đều đậm nét tham vọng không hề chán chê, và năng động không ngừng nghỉ.’
Nhân vật Albania râu bạc này, giờ trong tuổi lục tuần, luôn ăn mặc giản dị với khăn xếp trắng, dép vàng và áo choàng xanh dương, luôn phì phà một ông điếu bằng vàng và bạc có cẩn kim cương, cao đến 7 bộ, ‘có gương mặt nét Tác-ta với gò má cao’, và một ‘đốm lửa hoang dã kỳ lạ’ trong ‘cặp mắt xám tối sáng rực nét thiên tài và thông minh’. Sức mạnh của ông dựa vào thanh kiếm cong luôn cặp kè bên mình. Ông đã đến Ai Cập đúng lúc để chỉ huy binh đoàn Albania vì lợi ích của Ottoman chống lại Napoleon. Khi người Pháp ra đi, ông lợi dụng chỗ trống quyền lực tiếp sau đó để chiếm lấy Ai Cập. Sau đó ông triệu tập người con trai tài năng của mình (có người nói là cháu ông), Ibrahim, đánh lừa nhóm ông lớn mamluk-Ottoman đến dự một buổi lễ quân sự rồi ra tay hạ sát họ. Người Albania sau đó cướp phá và hãm hiếp suốt đường đi qua Cairo, nhưng vị sultan bổ nhiệm Mehmet Ali làm thống đốc Ai Cập. Ông chỉ cần mỗi đêm ngủ bốn tiếng và tự nhận đã học đọc ở tuổi 45. Mỗi đêm, nàng hầu thiếp cưng của ông đọc cho ông nghe về Montesquieu hoặc Machiavelli, và con người cách tân nhẫn tâm này bắt đầu thành lập binh đoàn Âu châu, với quân số 90,000 người, và một hạm thuyền.
Lúc đầu, vị sultan Ottoman Mahmoud II vui sướng lợi dụng được quyền lực đang lên này. Bối rối vì giáo phái Wahabi thuần khiết đã chiếm lấy Mecca, * vị sultan yêu cầu Mehmet Ali yểm trợ. Quân Albania lấy lại Mecca như ý muốn và gửi thủ cấp của Abdullah al-Saud về Istanbul. Khi vào năm 1824 người Hy Lạp nổi dậy chống vị sultan, Mehmet Ali gửi lực lượng của mình, đàn áp dã man người Hy Lạp. Việc này báo động đến các Cường quốc Âu châu khiến vào năm 1827 người Anh, Pháp và Nga cùng nhau hợp tác tiêu diệt hạm thuyền của Mehmet Ali tại Trận Navarino và bảo trợ sự độc lập của Hy Lạp. Nhưng việc này không ngăn cản được người Albania lâu: được cổ vũ bởi vị khách đến Jerusalem trước đó, giờ đã là ngoại trưởng Pháp, Tử tước Chateaubriand, họ thèm muốn đế chế của riêng mình.
* Dòng Wahhabi là những người đi theo thầy giảng Salafi thuộc giáo phái cơ yếu vào thế kỷ 18 có tên Muhammad ibn Abdul Wahabi, người trong năm 1744 đã kết thân với nhà Saudi. Mặc dù họ dưới tay Mehmet Ali, nhà Saudi chẳng bao lâu cũng thành lập được một nhà nước nhỏ. Trong thế chiến I và thập niên 1920, thủ lĩnh của họ Abdul-Aziz ibn Saud, được Anh tài trợ và được sự hậu thuẫn của quân đội Wahabi cuồng tính, tái chiếm Mecca và Arabia. Năm 1932, ông tự xưng là vua xứ Saudi Arabia, đến nay Hồi giáo dòng Wahabi còn cai trị. Ibn Saud là cha của ít nhất 70 đứa con và con trai của ông Abdullah lên ngôi vua năm 2005.
Vào cuối năm 1831, Mehmet Ali chính phục vụ vùng đất ngày nay là Israel, Syria và hầu hết Thổ Nhĩ Kỳ, đánh bại mọi đạo quân mà vị sultan gửi tới. Chẳng bao lâu binh đoàn của họ chuẩn bị chiếm Istanbul. Cuối cùng vị sultan phải nhìn nhận Mehmet Ali là người cai trị Ai Cập, Ả Rập và Crete với Ibrahim là thống đốc Syria mở rộng. Đế chế này giờ thuộc về người Albania: ‘Giờ tôi đã chinh phục được xứ sở này bằng thanh gươm,’ Mehmet Ali tuyên bố, và ‘bằng thanh gươm tôi sẽ gìn giữ nó’. Thanh gươm của ông là vị thống soái của ông, Ibrahim, người đã chỉ huy những binh đoàn đầu tiên của ông và tổ chức những vụ tàn sát đầu tiên của ông ngày khi còn thiếu niên. Chính Ibrahim là người đã đánh bại quân Saudi, tàn phá Hy Lạp, chinh phục Jerusalem và Damascus và hành quân thắng lợi gần như đến trước cửa ngõ Istanbul.
Giờ đã là mùa xuân 1834, Ibrahim, được biết dưới danh hiệu The Red, và không chỉ là do màu đỏ của bộ râu, lập bộ chỉ huy tại phức hợp nguy nga của Lăng mộ David. Gây sốc người Hồi khi ngồi trên ngai vàng kiểu châu Âu thay vì trên gối và công khai uống rượu vang, ông tiến hành cải cách Jerusalem. Ông giảm nhẹ sự áp bức người Cơ đốc và Do Thái, hứa hẹn quyền bình đẳng dưới luật, và chấm dứt việc thu phí mà người hành hương phải trả khi đến Nhà Thờ: giờ họ có thể mặc quần áo Hồi, cưỡi ngựa trên đường phố và không còn phải nộp thuế jizaya (thuế mà thần dân không phải người Hồi thường trú dưới chế độ Hồi giáo phái đóng) lần đầu tiên sau 5 thế kỷ. Người Albania nói tiếng Thổ khinh bỉ người Ả Rập hơn ai hết: cha của Ibrahim gọi họ là ‘bọn dã thú’. Vào ngày 25/4, Ibrahim gặp gỡ các lãnh đạo của Jerusalem và Nablus trên Núi Đền để ra lệnh giao nộp 200 thanh niên Jerusalem vào quân dịch. ‘Ta muốn lệnh này phải được thi hành ngay hôm nay không được chậm trễ, bắt đầu ngay ở đây tại Jerusalem,’ Ibrahim nói. Nhưng Jerusalem thách thức: ‘Chúng tôi thà chết hơn là giao con cái chúng tôi làm nô lệ vĩnh viễn,’ người Jerusalem đáp lại.
Vào ngày ⅗, thủ lĩnh Albania chủ tọa lễ Phục Sinh Chính thống giáo: 17,000 khách hành hương Cơ đốc tấp nập trong một thành phố sôi động như đứng trên bờ vực nổi loạn bất cứ lúc nào. Vào ngày Thứ Sáu Tốt Lành, đám đông ken cứng Nhà Thờ Mộ Thánh sẵn sàng chờ Lửa Thánh. Một khách du lịch Anh Robert Curzon chứng kiến sự kiện, kể lại như sau:
Thái độ của khách hành hương cực kỳ điên loan. Tới một lúc, họ thi nhau chạy đua quanh Mộ Thánh và một số, gần như trần truồng, nhảy nhót với những cử chỉ điên cuồng, la hét như thế bị ma ám.’
Sáng hôm sau, Ibrahim bước vào Nhà Thờ để chứng kiến Lửa Thánh nhưng đám đông quá chật cứng đến nỗi các cận vệ phải dọn đường ‘bằng đầu mũi súng hoả mai và roi da’ trong khi ba thầy tu chơi vĩ cầm như điên và các bà thì bắt đầu vừa uốn éo vừa rít lên rất quái đản’.
IBRAHIM: LỬA THÁNH, CÁI CHẾT THÁNH
Ibrahim ngồi xuống. Bóng tối buông xuống. Giáo trưởng Hy Lạp, trong đám rước long trọng, bước vào điện thờ. Đám đông chờ đợi tia lửa thiêng bùng lên. Curzon trông thấy đốm lửa nhấp nháy rồi ngọn lửa của Phép Lạ được truyền đến ‘người khách hành hương đã trả số tiền cao nhất cho vinh dự này’, nhưng ‘một trận chiến dữ dội’ bùng phát vì Lửa Thánh; các khách hành hương ngã xuống nền nhà trong những cơn bất tỉnh xuất thần; khói mù mịt đầy ắp Nhà Thờ; ba khách hành hương ngã từ hành lang tầng trên xuống chết; một phụ nữ Armenia lớn tuổi nằm chết ngay trên ghế. Ibrahim cố hết sức ra khỏi Nhà Thờ nhưng không đi chuyển được. Đội cận vệ của ông, cố hết sự vạch một lối đi qua đám đông, bắt đầu buộc phải giẫm đạp. Vào thời điểm Curzon đến được chỗ Thánh Nữ Đồng Trinh đứng trong bục Đóng Đinh, đá đã lung lay dưới bàn chân ông.
Đúng là tôi thực sự phải giẫm lên một đống thân thể. Tất cả đều đã chết. Nhiều người mặt thâm tím vì ngạt thở và người khác thì toàn máu me và óc não và nội tạng phủ lên người, bị đám đông giẫm đạp ra từng mảnh. Binh lính với lưỡi lê phải giết một số người khốn khổ bất tỉnh, vách tường bê bết máu và óc não của người bị đốn ngã như bò trong lò sát sinh.
Vụ giẫm đạp điên cuồng trở thành một trận chiến tuyệt vọng và dã man để mong sống còn – Curzon chứng kiến người chết chung quanh ông. Ibrahim chỉ thoát được trong đường tơ kẽ tóc, bất tỉnh vài lần cho đến khi cận vệ phải rút gươm xả một con đường máu qua da thịt người.
Các thi thể nằm chất đống thậm chí trên Tấm Đá Xức Dầu ngay bên trong lối vào Mộ Thánh. Ibrahim đứng trong sân ra lệnh dọn dẹp thi thể và lôi người con sống ra. 400 khách hành hương thiệt mạng. Khi Curzon thoát ra được, nhiều thi thể người chết vẫn còn đứng.
IBRAHIM: VỤ NÔNG DÂN NỔI DẬY
Khi tin tức thảm họa lan truyền khắp một giáo quốc đang khủng hoảng, các Đại gia Jerusalem, Nablus và Hebron đứng lên nổi dậy. Vào ngày 8/5, 10,000 nông dân Ai Cập có vũ trang tấn công Jerusalem, nhưng bị binh sĩ Ibrahim đẩy lui. Ngày 19/5, trong một khung cảnh làm nhớ lại việc đánh chiếm Jerusalem của Vua David, dân làng Silwan, bên dưới Thành phố David, chỉ cho bọn nổi dậy một con đường hầm bí mật. Họ chui qua vào tận trong thành phố và mở Cổng Dung đặt ở bước tường phía nam. Nông dân tràn vào cướp bóc các tiệm tạp hóa, binh lính trấn áp họ, rồi hùa vào cướp bóc theo . Bimbashi – chỉ huy quân đồn trú – bắt giữ các lãnh đạo của các Đại gia ở Jerusalem, nhà Husseini và Khalidi. Nhưng 20,000 người giờ đây đang cướp phá đường phố và bao vây Tháp. Hai nhà truyền giáo Mỹ trẻ tuổi, William Thomson và người vợ có bầu của ông Eliza, núp trong hầm trú ẩn: ông bỏ bà ở lại để đi Jaffa tìm trợ giúp trong khi bà nhốt mình trong phòng, giữa tiếng gầm rú của đại bác, tiếng tường đổ, tiếng hét thất thanh của người láng giềng, nỗi sợ chết khiếp của người hầu và thời khắc chờ đợi tử thần’. Bà hạ sinh một bé trai, nhưng đến lúc ông chồng trở lại Jerusalem thì bà đang hấp hối. Ông nhanh chóng thoát khỏi đất nước khốn khổ này.
Ibrahim, người đã rút quân về Jaffa, giờ đang chiến đấu qua các vùng đồi, mất đến 500 quân. Vào ngày 27/5, hạ trại trên Núi Zion, ông tấn công, giết 300 tên nổi loạn. Nhưng ông bị phục kích gần Hồ Solomon, và bị vây hãm trong Lăng mộ David. Phe nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Husseini và Abu Ghosh, lại vùng lên. Ibrahim phải gọi viện binh từ cha mình.
Chính Mehmet Ali đích thân dẫn 25,000 quân giong buồm đến Jaffa: ‘một ông già đẹp lão, khom người oai vệ trên chiến mã, chễm chệ, đường hoàng và rất phù hợp với phẩm chất của một con người vĩ đại’. Quân Albania đè bẹp phe nổi dậy và chiếm lại Jerusalem; nhà Husseini xứ Jerusalem bị lưu đày đến Ai Cập. Phe nổi loạn lại trỗi dậy lần nữa, nhưng Ibrahim the Red tàn sát họ bên ngoài Nablus, cướp phá Hebron và vùng quê, bêu đầu những tù binh – và tiến hành một ách cai trị khủng bố ở Jerusalem. Trở lại thành phố, ông bổ nhiệm tộc trưởng Jaber Abu Ghosh một tên săn trộm hoá người canh trộm làm thống đốc, và chặt đầu bất kỳ ai còn giấu vũ khí. Tường thành được trang trí bằng thủ cấp; các tù binh bị giam mục xương trong nhà tù mới ở Kishleh gần Cổng Jaffa, từ đó được người Ottoman, Anh và Israel sử dụng.
Người Albania là những người cách tân nhiệt tình, cần sự hậu thuẫn của người Anh nếu họ muốn chinh phục đế chế Ottoman. Ibrahim cho phép nhóm thiểu số sửa chữa những cơ ngơi đổ nát của họ: người Francis phục hồi St Saviour; người Do Thái dòng Sephardic bắt đầu xây lại Giáo đường Zakkai, một trong bốn giáo đường của Khu Do Thái; người Ashkenazis trở về Giáo đường Hurva, đã bị tàn phá vào năm 1720. Mặc dù Khu Do Thái giờ đây nghèo kiết xác, một ít người Do Thái gốc Nga, bị bức hại ở quê nhà, bắt đầu đến đó định cư.
1
Thống soái Albania râu đỏ Ibrahim Pasha chinh phục Syria vào năm 1831và suýt chiếm được Istanbul cho cha mình Mehmet Ali. Ông đập tan người Jerusalem nổi loạn một cách tàn bạo và mở cửa thành phố cho người Âu.
Năm 1839, Ibrahim thử thời vận ở Istanbul. Ông đập tan những binh đoàn Ottoman. Nước Pháp của Vua Louis Philippe hậu thuẫn người Albania, nhưng người Anh sợ ảnh hướng của Pháp và Nga nếu Ottoman thất thủ. Vị sultan và kình địch Ibrahim tranh thủ sự hậu thuẫn của phương Tây. Abdulmecid, vị sultan còn vị thành niên, ban hành một Huấn lệnh Cao quý hứa hẹn quyền bình đẳng cho nhóm thiểu số, trong khi Ibrahim mời các người Âu lập những lãnh sự quán ở Jerusalem – và, lần đầu tiên kể từ thời Thập Tự Chinh, cho phép rung chuông nhà thờ.
Năm 1839, phó lãnh sự đầu tiên của Anh, William Turner Young, đến Jerusalem không chỉ để đại diện cho quyền lực mới của London mà còn cải đạo cho người Do Thái để đẩy nhanh Sự Trở Lại (của Jesus).