NGUỒN GỐC TRẬT TỰ CHÍNH TRỊ – Kỳ 3 – Các nhà nước Islam giáo và “đặc sản” Nô lệ quân sự

(Nguyễn Đỗ Thuyên)

Chúng ta đều hiểu chính trị theo nghĩa chung nhất là toàn bộ các hoạt động liên quan đến tìm kiếm, duy trì và phân bổ quyền lực. Chính vô số các tương tác chính trị của vô số cá nhân, tổ chức đã hình thành nên trật tự chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực, qua mỗi giai đoạn lịch sử.

Tuy vậy, có khi nào chúng ta đặt câu hỏi:

Tại sao lại xuất hiện hình thái nhà nước phong kiến?

Tại sao phong kiến châu Âu khác phong kiến Trung Hoa?

Tại sao trật tự thế giới hiện tại là như thế? Có tác nhân gì, quy luật gì trong quá khứ đã tác động đến nó?

Những tác nhân, quy luật đó vẫn còn tồn tại hay đã biến mất?…

Có thể gộp chung lại các câu hỏi trên thành một câu hỏi lớn: Đâu là Nguồn gốc của Trật tự chính trị?

Theo Fukuyama, bởi vì con người luôn có xu hướng cất nhắc người thân vào hệ thống cũng như tìm kiếm các đặc lợi cho người thân (quá trình “thân tộc hóa”), hệ quả là nhà nước sẽ không thể duy trì được hệ thống tuyển chọn khách quan, chất lượng của bộ máy sẽ đi xuống, kèm theo vấn nạn tham nhũng và tư lợi. Và như vậy, Trật tự chính trị – theo Fukuyama – thực chất chính là cuộc chiến của nhà nước khách quan chống lại quá trình Thân tộc hóa và Tái thân tộc hóa.

Trật tự chính trị ấy đã diễn ra như thế nào ở các nhà nước nổi bật?

Kỳ 1 của loạt bài viết này đã chỉ ra, nhà nước Trung Hoa thời kỳ Thương Ưởng và vương triều Tây Hán đã có những chính sách nhằm hạn chế quyền lực thân tộc. Chủ nghĩa thân tộc thắng thế ở thời Đông Hán, Ngụy Tấn Nam Bắc triều trước khi nhà Tùy và Đường lập lại trật tự của một nhà nước mạnh.

Kỳ 2 của loạt bài viết này cũng cho thấy, chính hệ thống phân tầng đẳng cấp varna và jati là nguyên nhân chính dẫn đến việc không thể hình thành nên một nhà nước tập quyền mạnh ở Ấn Độ cho dù Ấn Độ và Trung Quốc đã từng có những bước phát triển tương tự nhau trong giai đoạn phát triển cấp độ bộ lạc. Thay vào đó, một “xã hội mạnh” đã chiếm ưu thế trước một “nhà nước yếu”, và tôn giáo mang tính lập pháp đã tạo nên mầm mống của Pháp quyền ở Ấn Độ.

Vậy các hình thái nhà nước khác như Islam giáo thì sao? Kỳ 3 này sẽ cho chúng ta câu trả lời.

7 – TỪ CHẾ ĐỘ BỘ LẠC ĐẾN NHÀ NƯỚC ISLAM GIÁO

Tiến trình hình thành các nhà nước Islam giáo cũng có chung một số đặc điểm với Trung Hoa và Ấn Độ: khởi phát từ các yếu tố tôn giáo (giống như Ấn Độ), các giáo lý của Nhà tiên tri Muhammad trong một chừng mực nhất định đã chống lại các mô hình bộ lạc và tuyên bố sự tồn tại của một umma (cộng đồng tín đồ phổ quát), trong đó người ta phải trung thành trước tiên là với Thượng đế và lời của Thượng đế, chứ không phải với bộ lạc của họ. Muhammad đã kết hợp sự đồng thuận xã hội trên nền tảng tôn giáo, khả năng lôi cuốn đám đông và cả vũ lực để thống nhất các bộ lạc xung đột ở Medina, rồi đến Mecca và các vùng xung quanh để tiến đến một xã hội cấp nhà nước.

Cũng giống như Trung Hoa, nhà nước Islam giáo được hình thành thông qua nhiều cuộc chiến tranh. Dưới thời kỳ của ba Caliph [1] đầu tiên (năm 632-656), đế chế Islam giáo mở rộng với tốc độ chóng mặt, hợp nhất toàn bộ bán đảo Arab và các vùng đất quan trọng hiện nay như Lebanon, Syria, Iraq, Iran và Ai Cập. Nhà nước Umayyad thành lập năm 661 ở Damascus tiếp tục mở rộng lãnh thổ sang Bắc Phi, Anatolia và Trung Á.

Khó có thể xác định chính xác thời điểm một nhà nước Islam giáo chính thức xuất hiện, nhưng chắc chắn là từ thời Caliph Umayyad thứ hai (661-680), một chính thể với đầy đủ các yếu tố thể chế (lực lượng quân đội và cảnh sát thường trực, duy trì được bộ máy quan liêu để thu thuế định kỳ, thực hiện công lý và giải quyết tranh chấp, có khả năng xây dựng các công trinhg công cộng lớn) đã xuất hiện.

Mặc dù vậy, duy trì sự thống nhất của đế chế (tức là tạo ra một bộ máy quản lý tập quyền đơn nhất trên tất cả các vùng khác nhau) là một thách thức với triều đại Umayyad, vì nhà nước được xây dựng trên nền tảng bộ lạc vốn yếu và không ổn định. Các thủ lĩnh bộ lạc thường nhạy cảm, thiếu tính kỷ luật và liên kết. Sự trung thành mạnh mẽ với bộ lạc đã chiến thắng những tư tưởng về ý thức hệ thuần khiết, và nhà nước Islam giáo tiếp tục bị hủy hoại bởi những cuộc tranh đấu và thù địch dòng tộc. Có thể nói, cho đến thế kỷ VII và VIII, đây vẫn là một nhà nước yếu với sự lấn át của chủ nghĩa thân tộc.

8 – “ĐẶC SẢN” NÔ LỆ QUÂN SỰ Ở CÁC NHÀ NƯỚC ISLAM GIÁO

Để khắc phục những điểm yếu dai dẳng từ tàn dư của liên kết bộ lạc và chủ nghĩa thân tộc, triều đại Abbasid ở Bagdad vào giữa thế kỷ IX đã phát minh ra một hệ thống mang tính quyết định đến sức mạnh của nhà nước Islam: Hệ thống Nô lệ quân sự.

Hệ thống này khởi nguồn từ Caliph Al-Ma’mun khi ông tiến vào thảo nguyên Trung Á, thu nạp một lượng lớn nô lệ từ các bộ lạc gốc Thổ (người Turk), đào tạo họ thành binh sĩ. Đội cận vệ 4000 nô lệ gốc Thổ đầu tiên được gọi là Mamluk – thuật ngữ rồi sẽ còn xuất hiện liên tục sau đó trong các nhà nước Hồi giáo khác. Đến thời Caliph Al-Mu’tasim, các Mamluk đã lên đến 70.000 người, được cải đạo sang Islam và trở thành nòng cốt của quân đội Abbasid.

Điều khiến cho các Nô lệ quân sự này khác biệt chính là ở chính sách của Caliph Al-Mu’tasim: Một mặt, ông ta đào tạo các mamluk này trong các học viện chuyên biệt để họ có năng lực quản lý đất nước. Mặt khác, ông ta mua các cô gái nô lệ người Thổ để cho họ về làm vợ các Mamluk, cấm Mamluk hòa nhập với bất kỳ người dân địa phương nào khác. Từ đó, ông tạo ra một đẳng cấp quân sự tách biệt với xã hội xung quanh.

Những Nô lệ quân sự vốn được sinh ra ở những nơi rất xa, giờ đây không biết trung thành với ai khác ngoài Caliph của họ. Các Mamluk đã không còn cha mẹ hay người thân, lại không được phép lập gia đình riêng với cư dân địa phương mà chỉ có thể cưới nô lệ, cho nên đã hoàn toàn bị cắt đứt khỏi các mối liên kết với dòng tộc. Họ không có dòng tộc nên xung quanh họ không hề tồn tại chủ nghĩa thân tộc. Vì vậy, vấn nạn cố hữu trong xã hội Arab truyền thống là thân tộc và xung đột lợi ích từ sự trung thành với bộ lạc giờ đây đã được khắc phục.

Sau thời kỳ của triều đại Abbasid, ba trung tâm quyền lực mới đã xuất hiện và đều dựa trên hiệu quả của chế độ Nô lệ quân sự: (1) Đế chế Ghaznavid ở Afganistan đã thống nhất các phần của Đông Ba Tư và Trung Á; (2) Vương quốc Mamluk của Sultan [2] Ai Cập đã từng chiến thắng cả Thập tự quân Kito giáo và người Mông Cổ; (3) Đế chế Otoman hùng mạnh.

Trong cả ba trường hợp, chế độ Nô lệ quân sự đã giúp thành lập nên bộ máy quân sự lâu bền trong lòng các xã hội bộ lạc thuần túy. Và người Ottoman đã phát huy một cách thành công nhất nhờ hoàn thiện được chế độ này. Họ đã duy trì được việc loại bỏ chủ nghĩa thân tộc ra khỏi bộ máy nhà nước trong gần ba thế kỷ, trước khi bắt đầu suy tàn vào cuối thế kỷ XVII.

9 – GIAI TẦNG “NHẤT THẾ QUÝ TỘC” CỦA NGƯỜI OTTOMAN

Đầu thế kỷ XVI, đế chế Ottoman đã hoàn thiện chế độ Nô lệ quân sự vốn khởi nguồn từ triều đại Abbasid giữa thế kỷ IX. Không chỉ dừng lại ở việc thu nhận các nô lệ gốc Thổ như như Caliph Al-Ma’mun, người Ottoman tiến hành đánh “thuế máu” lên người Kito giáo ở các vùng đất họ đi qua. Những người không theo Islam giáo buộc phải đóng thuế bằng thứ thân thương nhất với họ – con cái. Các nam thanh niên từ 12 đến 20 bị tách khỏi gia đình, bị buộc cải sang Islam giáo và tham gia huấn luyện quân sự từ 5-8 năm. Trong giai đoạn này, cứ mỗi năm có khoảng 3000 bé trai trở thành “thuế máu”.

Những cậu bé này không hề phải chịu cuộc sống hèn hạ hay nhục nhã của một nô lệ. Trái lại, 10% giỏi nhất trong số đó được phục vụ trong các cung điện ở Istanbul, được đào tạo để trở thành các quan chức cấp cao của đế chế. Những người còn lại được tuyển mộ vào các đội Cấm vệ quân Janissary danh tiếng, lực lượng bộ binh tinh nhuệ chiến đấu cho Sultan trong các chiến dịch quân sự liên tục ở châu Âu và châu Á. Bọn trẻ được đào tạo rất bài bản: tiếng Arab, Ba Tư, âm nhạc, thư pháp, toán học, cưỡi ngựa, bắn cung, vẽ tranh… Nếu những nô lệ trẻ này chứng tỏ được khả năng, họ hoàn toàn có thể trở thành tướng lĩnh, tỉnh trưởng, quan chức cấp cao, thậm chí là tể tướng. Sau khi phục vụ trong quân đội, nhiều binh sĩ sẽ được định cư sống dựa vào thuế thu của người dân trên vùng đất của mình.

Tuy nhiên, có một giới hạn mang tính quyết định đối với các nô lệ: Họ không được bán hay truyền lại cho con cái chức quan và đất đai; bởi đó không phải tài sản cá nhân của họ. Điều này biến họ thành tầng lớp “Quý tộc một thế hệ” (Nhất thế quý tộc) và trừ khử mọi nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa thân tộc. Dù có có quyền thế thế nào đi nữa, những Nhất thế quý tộc vẫn là nô lệ của Sultan và có thể bị hạ bệ hoặc xử tử ngay tức khắc chỉ với một mệnh lệnh. Với thể chế này, người Ottoman cũng giống người Trung Hoa ở chỗ đã tạo ra được một bộ máy quan liêu cả về quân sự lẫn dân sự đều dựa trên việc trọng dụng nhân tài một cách khách quan. Sự khác biệt là: ở Ottoman, cơ chế này chỉ mở ra đối với những nô lệ ngoại quốc – những người khác biệt về mặt dân tộc với xã hội mà họ cai trị.

Người Ottoman có sự phân biệt nghiêm ngặt giữa: (1) Những người được tuyển dụng vào tổ chức cai trị với tư cách là nô lệ không theo Islam giáo, gọi là askeri; với (2) Những người còn lại của đế chế, gọi là reayaReaya có thể có gia đình, tài sản riêng và để lại cho con cái, nhưng không ai trong reaya có thể trở thành thành viên của giới cầm quyền, sỡ hữu vũ khí hoặc trở thành binh sĩ hay quan chức trong chính quyền Ottoman. Askeri thì ngược lại. Và nguồn nhân lực askeri phải liên tục được thay mới mỗi năm bởi các tân binh Kito giáo, những người đã bị cắt đứt mọi liên hệ với gia đình, không được phép lập hiệp hội, phe phái gì và chỉ có thể trung thành với đế chế Ottoman.

10 – THẤT BẠI VÀ DI SẢN

Như nhiều nhà nước khác, đế chế Ottoman bắt đầu suy tàn vì không kịp điều chỉnh mô hình trước những tác động bên ngoài như lạm phát kéo dài và gia tăng dân số. Lạm phát khiến hệ thống phân phối đất cho các Nô lệ quân sự khó thực hiện hơn. Các kỵ binh sipahi (một loại Nô lệ quân sự) thiếu tiền trang trải cho chi phí vũ trang nên bắt đầu từ chối tham gia các chiến dịch. Các cấm vệ quân Janissary ở thành thị bắt đầu được phép tham gia các nghề nghiệp dân sự như thợ thủ công hay thương nhân, từ đó làm xói mòn ranh giới giữa hai giai tầng askeri và reaya như trước kia. Mầm mống của chủ nghĩa thân tộc bắt đầu xuất hiện khi các Nô lệ quân sự được gắn kết nhiều hơn với quyền lực địa phương.

Bên cạnh đó, khi chính quyền trung ương phải đối mặt với áp lực tài chính, các quy tắc nhằm quản lý hệ thống Nô lệ quân sự bắt đầu bị xâm phạm. Đến thời kỳ của Suleiman I (1520-1566), các thành viên của Janissary đã có thể kết hôn và lập gia đình. Các thành viên này sau đó tiếp tục gây áp lực để con cái họ có thể tham gia lực lượng quân sự. Giai tầng “Nhất thế quý tộc” lúc này đã có thể truyền thừa nhiều đời. Sự thăng tiến bắt đầu dựa vào quan hệ cá nhân thay vì quy tắc. Chủ nghĩa thân tộc đã dần dần lan ra khắp hệ thống.

Mặc dù vậy, nhìn tổng thể, đế chế Ottoman là chế độ thành công nhất từng xuất hiện trong thế giới Islam giáo bởi khả năng tập quyền cao chưa từng có trong khu vực. Họ đã chuyển đổi từ xã hội bộ lạc sang xã hội nhà nước trong một thời gian ngắn, sau đó phát triển các thể chế nhà nước kết hợp một số tính năng hiện đại, mà đáng chú ý nhất là hệ thống tuyển mộ nhân tài trên cơ sở năng lực một cách khách quan và đề kháng khỏi nguyên tắc thăng tiến nhờ quan hệ thân tộc.

Chế độ Nô lệ quân sự và giai tầng Nhất thế quý tộc là một đặc trưng thú vị của các nhà nước Hồi giáo, một công cụ đắc lực để nhà nước trung ương đánh bại chủ nghĩa thân tộc. Ở kỳ tiếp theo, chúng ta sẽ phân tích mô hình thứ tư của Fukuyama: nhà nước châu Âu.

(còn tiếp)

Xem lại Kỳ 1 tại: https://www.facebook.com/…/permalink/1412260305791935/

Xem lại Kỳ 2 tại: https://www.facebook.com/…/permalink/1413429002341732/

Ảnh: Cấm vệ quân Janissary.

GHI CHÚ:

[1] Nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo của Hồi giáo trong thời kỳ sau khi Muhammad chết.

[2] Người cai trị, đặc biệt là trong quá khứ, của một số quốc gia Hồi giáo.

THAM KHẢO:

1. Nguồn gốc trật tự chính trị – Fukuyama.

2. Kể chuyện Tần Hán – Lê Đông Phương.

3. Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc – Cát Kiếm Hùng.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *