Theo dòng sử Việt

Lịch sử là những gì đã xảy ra, nhưng việc nhìn nhận về quá khứ thì vẫn vận động nhờ tư duy không ngừng và nhờ những thành tựu mới của con người trong nhiều lĩnh vực. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ đưa ra một số nhìn nhận mới về lịch sử Việt Nam.

I. Giao Chỉ

Giao Chỉ là tên mà người Trung Quốc gọi một quận ở khu vực Lĩnh Nam, mà toàn khu vực này họ cũng gọi là bộ Giao Chỉ. Dân số trong quận, theo con số thống kê được ghi nhận vào năm thứ 2CN thời tiền Hán, là 746.237 nhân khẩu. Trong khi tổng số cả bảy quận của bộ Giao Chỉ là 1.372.290 nhân khẩu (1). Tên gọi và tương quan dân số cho thấy rằng quận Giao Chỉ là lớn nhất, là đại diện tiêu biểu cho toàn Lĩnh Nam.

Thái thú quận Giao Chỉ dưới thời Hậu Hán và Ngô là Sĩ Nhiếp được coi là một người đứng đầu trong các thái thú ở Lĩnh Nam.

Khu vực miền bắc Việt Nam thuộc quận Giao Chỉ.

Có cơ sở để cho rằng biên giới của quận Giao Chỉ khác xa với những hình dung thời nay. Tài liệu Tam Quốc Chí của Trần Thọ được viết vào thời Tấn cho biết Thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp thuyết phục được các họ lớn ở Ích Châu, thuộc nước Thục, là bọn Ung Khải đem cả dân chúng trong quận sang quy phụ Đông Ngô (2). Giai đoạn Tam Quốc, theo Tấn thư, thì viên Thứ sử Giao Châu, cai quản ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, của phía Đông Ngô là Đào Hoàng thường phải đụng độ với nhà Tấn sau khi họ tiếp quản nước Thục. 

Chi tiết trong bức thư Đào Hoàng gửi Tấn đế, khi nhà Ngô đầu hàng nhà Tấn vào năm 280, Đào Hoàng buộc phải theo nhà Tấn, nói về việc phải quản lý khối cư dân không phụ thuộc vào Quế Lâm ở phía bắc, giúp xác định Giao Châu giáp với quận Quế Lâm, một quận phía đông bắc Quảng Tây (3). Như vậy, biên giới của quận Giao Chỉ vượt rất xa về phía bắc so với biên giới Việt Trung ngày nay.

Một cơ sở có thể phản bác ý kiến trên, là việc nhà Ngô năm 264 lấy phần từ Hợp Phố trở về bắc lập thành châu mới là Quảng Châu, phía nam Hợp Phố là Giao Châu, khiến có thể hình dung rằng quận Giao Chỉ nằm hẳn về phía nam của Hợp Phố. Thực tế, cách phân chia này là xét theo dải bờ biển và hành trình đến trị sở Giao Châu, chứ không tính cả phía sâu trong lục địa. 

Trị sở Giao Châu, cũng là trị sở quận Giao Chỉ thời Ngô là Liên Lâu. Từ Trung Quốc đi đến Liên Lâu có thể theo đường ven biển qua Nam Hải, Hợp Phố. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, nhà Đông Ngô cử Đới Lương thay nhưng Lương chỉ đi đến được Hợp Phố thì bị con trai của Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy chặn lại (4). 

Con đường biển đến Liên Lâu cũng được Đào Hoàng sử dụng để chiếm lại quận lỵ từ tay quân Tấn (5). 

Vị trí Liên Lâu ngày nay cơ bản được thống nhất là nằm ở huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, ở đó vẫn còn dấu tích tòa cổ thành. Năm 2013 người ta còn phát hiện được một tấm bia thờ Đào Hoàng có niên đại Kiến Hưng nhị niên (năm 314), ở thôn Thanh Hoài, xã Thanh Khương, cũng thuộc huyện Thuận Thành (6).

Vào giai đoạn đầu công nguyên trở về trước thì từ Liên Lâu ra biển còn gần hơn bây giờ rất nhiều, do đó thuận lợi để đóng vai trò một nút giao thông quan trọng nối lục địa, ven biển Nam Á và ven biển phía đông Trung Quốc.

Miền Lĩnh Nam có hai cửa ngõ chính đi ra biển, đóng vai trò rất quan trọng trong việc giao thương, một là phía đông, đi ra cửa sông Châu Giang, khu vực thành phố Quảng Châu ngày nay, hai là phía nam, đi xuống vùng vịnh biển mà ngày nay thuộc tam giác châu thổ sông Hồng. Các cửa ngõ cũng là con đường di dân vào sâu trong lục địa, hình thành các khối dân cư và hệ sinh thái. Có thể người Trung Quốc dựa vào đó phân chia thành hai khu vực là Việt Đông và Việt Tây hoặc Quảng Đông và Quảng Tây. Thời nhà Đường, họ cũng từng chia Giao Châu, lúc này bao gồm toàn bộ Lĩnh Nam, làm hai đạo Đông và Tây. Cửa ngõ từ phía sông Hồng có ưu thế về khoảng cách tính theo hải trình dọc bờ biển từ phía tây đi sang phía nam rồi đi lên lục địa phía bắc, một tuyến đường đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong tiến trình lịch sử nhân loại. Chỉ tính riêng theo đường bộ từ bờ đi sâu vào lục địa thì cửa ngõ sông Hồng vẫn là gần nhất đối với một khu vực rộng lớn bao gồm phía bắc Việt Nam và phía tây nam Trung Quốc.

Hệ cư dân khu vực Lĩnh Nam, hay mở rộng hơn nữa là khu vực phía nam Trường Giang, theo nhận định khá thống nhất của giới khoa học, chủ yếu được hình thành từ sự di cư từ phía Nam và Đông Nam Á đi lên. Sự xâm nhập của người Hoa Hạ từ phía bắc chỉ xảy ra ở những giai đoạn sau.

Một sự kiện được thường coi là cột mốc về ảnh hưởng của người Trung Quốc ở Lĩnh Nam là việc Tần Thủy Hoàng cử binh chinh phục Lĩnh Nam và cho chuyển 50 vạn người Trung Quốc xuống ở lẫn với người bản địa.

Thực tế thì ngay trên cổ sử Trung Quốc, người ta đã chép rằng các tộc Bách Việt đã thần phục nước Sở, một quốc gia đã sớm nằm trên vùng tiếp biến giữa Hoa Hạ và phương Nam thời Xuân Thu Chiến Quốc. Thần phục là cách Trung Quốc nói về những khu vực xung quanh có qua lại với họ. Dưới triều đại Tần có Sử Lộc là một người Bách Việt làm quan, cũng là một thí dụ về việc đã có qua lại giữa hai khu vực.

Trở lại với con số 50 vạn người di cư. Chúng ta đều biết nhà Tần tồn tại rất ngắn, năm 217TCN họ mới bắt đầu công cuộc chinh phục Lĩnh Nam, năm 210TCN thì Tần Thủy Hoàng chết, nhà Tần kéo dài thêm được 5 năm nữa trong sự rối loạn, vậy thì khoảng thời gian này có lẽ không đủ để họ vừa chinh phục lại vừa hoàn tất một cuộc di dân khổng lồ. Nhiều khả năng đây là một kế hoạch dở dang. Thực tế nếu có một lượng di dân lớn đến thế thì khó mà có tình trạng triều đại nhà Triệu bị Việt hóa như sử ghi nhận. 

Con đường để quân Tần tiến sâu vào khu vực bản địa là kênh Linh Cừ, nằm ở phía đông bắc Quảng Tây, mà họ phải đào đến ba năm, 217-214TCN, trước sự chống cự quyết liệt của người bản địa. Chủ tướng đạo quân Tần là Đồ Thư bị giết chết. Năm 210TCN Tần Thủy Hoàng chết, Trung Quốc rơi vào cảnh nội loạn, nên rõ ràng họ không có điều kiện chinh phục thêm. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên thì nhà Tần mới tạm định vùng Dương Việt, tức là duyên hải phía đông nam Trung Quốc, đặt ba quận là Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Ba quận này ít lâu sau đó bị Triệu Đà thâu tóm để lập quốc gia riêng, gọi là Nam Việt. Khu vực ba quận của Triệu Đà nắm giữ chỉ quanh vùng đông bắc của miền Lĩnh Nam mà thôi. 

Sau khi đánh bại được đội quân của Long Lự hầu Táo do Cao hậu nhà Hán cử nam chinh, Triệu Đà xưng đế, lại đem tiền của hối lộ các vùng Mân Việt, Tây Âu Lạc khiến cùng phụ thuộc mà phục dịch mình (Theo Sử ký của Tư Mã Thiên). Đó có thể chỉ là một hình thức liên minh tạm thời, bởi vì sau đó giữa Nam Việt và Mân Việt vẫn có chiến tranh. Sử ký chép, năm 179TCN thời Hiếu Văn đế, Triệu Đà có thư trình bày với hoàng đế nhà Hán rằng “phía tây có Âu Lạc là nước ở trần mà cũng xưng vương”. Hán thư chép đoạn này trong toàn bộ bức thư Triệu Đà là “phía tây có Tây Âu, dân chúng một nửa là yếu ớt, mà cũng ngoảnh mặt về phía nam xưng vương” (7).

Vậy Tây Âu cũng tức là Âu Lạc. Họ có quốc gia riêng, ngoảnh mặt về phía nam xưng vương chứ không ngoảnh mặt về phương bắc thờ vua Hán.

Theo Dư địa chí, của Cố Dã Vương sống ở thế kỷ thứ 6, thì quận Giao Chỉ đời Chu gọi là Lạc Việt, đời Tần gọi là Tây Âu. Như vậy Lạc Việt, Tây Âu, Âu Lạc, Giao Chỉ đều chỉ vùng đất rộng lớn tiếp giáp phía tây vùng Dương Việt, mặc dù không hẳn kích thước đồng nhất trong các giai đoạn. 

Vị quân chủ của Âu Lạc cùng thời với Triệu Đà là An Dương Vương, mà một số sử liệu đề cập tới khá sớm, chẳng hạn Hậu Hán thư – quận quốc chí chép Giao Chỉ là nước cũ của An Dương Vương. Quảng Châu ký, được soạn vào đời Tấn, cũng chép việc Triệu Đà đánh An Dương Vương, sau đó cử hai sứ giả đến cai quản.

Việc hai viên cai trị chỉ được gọi là sứ giả, và chi tiết trên Sử ký cho biết nhà Hán đã phong tới tước hầu cho Quế Lâm giám Cư Ông vì đã thuyết phục được người Âu Lạc theo Hán cho thấy mức độ tự quyết của người Âu Lạc vẫn còn lớn. Có thể cho rằng triều đại nhà Triệu chưa bao giờ thực sự cai trị Âu Lạc. Chỉ khi nhà Hán tiến xuống phương nam thì họ mới đủ lực để quy hoạch thành quận huyện.

Nhà Hán chia vùng đất mới được tiếp quản thành 9 quận, trong đó Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm ở phía đông bắc, Châu Nhai và Đạm Nhĩ trên đảo Hải Nam. Như vậy các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và có thể cả quận Hợp Phố là từ Âu Lạc mà chia ra.

Mức độ cai trị thực tế của người Trung Quốc kể từ thời Hán cũng là một vấn đề cần xem xét. Khi viên thái thú Tô Định dùng pháp luật để ràng buộc, hẳn là với mục đích quản lý chặt chẽ nhằm cải hóa lẫn thu thuế, thì dân chúng theo Trưng Trắc nổi loạn. Đó là năm 40 CN, thời điểm này cách ngoài 150 năm khi nhà Hán tiếp quản. Đến thời Tấn, theo bức thư của viên Thứ sử đã cai quản lâu năm là Đào Hoàng gửi cho Tấn đế, vào khoảng năm 280 khi ông ta vừa thần phục nhà Tấn, thì “những kẻ không đến phụ theo về chỉ hơn năm vạn hộ, cùng những kẻ không chịu theo ràng buộc ở Quế Lâm cũng phải vạn hộ. Còn những người đến phục tùng quan dịch, chỉ hơn năm ngàn nhà”, và quân đội của ông ta “còn lại chỉ hai ngàn bốn trăm hai mươi người” (8), cho thấy vài điều. Thứ nhất là tỷ lệ giữa lượng người bên chính quốc sang, có thể nằm trong số chịu phục tùng quan dịch, so với thành phần bản xứ họ không sử dụng được là rất nhỏ. Thứ hai là với số lượng binh sĩ ít như thế mà chế độ vẫn giữ được, thì chủ yếu vẫn phải là thỏa hiệp. Sau khoảng 400 năm đô hộ thì mức độ thâm nhập của người Hán vẫn rất thấp.

Người Giao Châu lại dành được quyền tự chủ vào năm 468 từ triều đại nhà Lưu Tống. Lý Trường Nhân nổi lên, giết châu mục từ phương bắc sang, nhà Tống đánh không được nên buộc phải chấp nhận cho Lý Trường Nhân, rồi người kế vị là Lý Thúc Hiến cai quản Giao Châu. Nhà Tề lên thay nhà Tống, ban đầu vẫn chấp nhận Thúc Hiến, sau lại lấy lý do Thúc Hiến cắt đứt việc cống nên vào năm 485 đã cử binh chiếm lại Giao Châu. (9)

Năm 541, Lý Bí lãnh đạo dân chúng nổi lên, đuổi Thứ sử Tiêu Tư về nước, xưng là Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Nhà Lương cử binh sang đánh, Lý Nam Đế chuyển sang cửa sông Tô Lịch ở hữu ngạn sông Hồng rồi lùi dần lên vùng núi, địa bàn của người Lạo, rồi chết. Lực lượng còn lại chia làm hai nhánh. Một nhánh theo Triệu Quang Phục ra vùng đầm Dạ Trạch thuộc huyện Chu Diên là quê của ông, nay là vùng Hưng Yên, tổ chức kháng chiến, đến năm 550 đuổi được quân Lương, lên làm vua, gọi là Triệu Việt Vương. Một nhánh do anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo nắm giữ. Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương, ở đất của người Lạo, phía tây nước ta và Ai Lao. Người thừa kế Lý Thiên Bảo là Lý Phật Tử sau kéo quân về tranh chấp rồi hạ được Triệu Quang Phục. Năm 602 nhà Tùy cất quân sang đánh bại Lý Phật Tử, chiếm lại Giao Châu.

Sử Việt (Toàn Thư) ghi Lý Nam Đế có tổ tiên là người phương Bắc nhưng đã sang phương Nam từ cuối đời Tây Hán nên đã thành người Nam. Sử Trung Quốc cũng gọi Lý Nam Đế là người Giao Châu. Theo Tùy thư thì Lý Phật Tử, người họ hàng của Lý Nam Đế, là người Lái (俚) (10). Vậy chính xác là gia tộc này đã Lái hóa từ nhiều đời. 

Tộc Lái đã cùng với người man (蠻), tức là người vùng sâu vùng xa nói chung, tham gia cuộc khởi nghĩa Trưng Trắc trước đó trên 500 năm. Hậu Hán thư chép người man Lái ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng (11), dĩ nhiên người ở Giao Chỉ thì họ không cần liệt kê vào nữa vì đây là nơi khởi phát. 

Năm 687, người tộc Lái lại nổi dậy chống chế độ cai trị. Nguyên là trước đó người Lái chỉ phải nộp một nửa số thuế hàng năm, viên Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt nộp đủ, lại giết thủ lĩnh Lý Tự Tiên, vì vậy họ theo Đinh Kiến nổi dậy chiếm Đô hộ phủ và giết chết Diên Hựu (12).

Sự kiện này lại một lần nữa cho chúng ta thấy người Lái sau nhiều thế kỷ bị cai trị vẫn còn giữ được dân tộc của mình và là một thế lực mạnh  khiến nhà cầm quyền phương bắc phải thỏa hiệp. Căn cứ trên địa bàn hoạt động của các thủ lĩnh như Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục (Toàn thư chép Thái phó Triệu Túc là thủ lĩnh ở Chu Diên, căn cứ của con ông là Triệu Quang Phục ở đầm Dạ Trạch thuộc huyện Chu Diên, nay là Hưng Yên) thì có thể thấy rằng người Lái đã chiếm lĩnh cả miền đất thấp mà ngày nay thuộc Đồng bằng sông Hồng. 

Trong cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế còn có mặt một tộc người khác, đó là người Lạo (獠). Toàn Thư chép, khi Lý Nam Đế bại trận đã lánh vào đất của người Lạo ở Tân Xương.

Năm 791 Phùng Hưng lật đổ chế độ cai trị nhà Đường, dành độc lập được một thời gian ngắn. Toàn Thư chép Phùng Hưng dùng kế của một người cùng làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Tân Đường thư – Triệu Xương truyện chép Tù trưởng người Lạo ở An Nam là Đỗ Anh Hàn làm phản (13), sách này không nhắc đến Phùng Hưng. Dù vai trò của hai người cùng làng này với nhau thế nào thì chúng ta cũng có thể suy ra được rằng Phùng Hưng với Đỗ Anh Hàn, ở Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc tỉnh Hà Tây, là cùng tộc người Lạo.

Như vậy An Nam thời Đường có hai tộc người địa phương có lực lượng mạnh từng chiếm được trị sở Đô hộ phủ là người Lái và người Lạo. Xét ghi chép trên Đại Việt Sử ký Toàn thư rằng Lý Nam Đế thua ở cửa sông Tô Lịch mới chạy về thành Gia Ninh, rồi lại chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương, là đã ngược khá xa đồng bằng, vậy nhiều khả năng người Lạo là tộc người có địa bàn cư trú là những vùng núi. Người Lái thì chứng tỏ là đã sớm hoạt động ở Đồng bằng sông Hồng. Vùng phía tả đồng bằng là cửa ngõ Lĩnh Nam, là nơi có những trị sở đầu tiên của khu vực như Phong Châu, Cổ Loa, Liên Lâu.

Một thành phần cư dân nữa phải kể đến là dòng người từ phương bắc xuống. Với quá trình cả nghìn năm thì lượng người di cư là không nhỏ. Dấu tích có thể thấy qua hàng chục ngôi mộ niên đại Hán của những người quyền quý cạnh tuyến đường thủy nối vùng trị sở Giao Châu với duyên hải phía nam Trung Quốc. Nguồn gốc phương bắc của nhiều gia tộc cũng được thể hiện trong các truyền khẩu hoặc ghi chép, chẳng hạn gia tộc Lý Nam Đế, Phạm Tu, Hồ Quý Ly. Theo thời gian, hậu duệ của họ trở thành người Việt, có thể có địa vị cao, có nhiều đóng góp cho cộng đồng, nhiều ảnh hưởng trong dân chúng, thậm chí làm vua. Yếu tố phương bắc trong sự hình thành cộng đồng Việt là rõ ràng.

Cuộc chiến tranh với người Nam Chiếu từ năm 858 đến 866 là một biến cố lớn với An Nam. Quốc gia này vốn thù địch với nhà Đường, hai bên có nhiều ân oán. Có thể đó là một nguyên nhân khiến nhà đô hộ An Nam gây khó khăn cho việc giao thương với miền ngược, trên con đường vào Nam Chiếu, qua việc bắt chẹt về muối, ép giá một con trâu mới đổi được một đấu muối. Vì vậy người miền ngược đã hợp tác với quân Nam Chiếu tấn công chiếm các phủ thành, giết bắt tổng cộng 15 vạn người. Dĩ nhiên họ nhằm vào hệ thống cai trị, thương lái và người Hán nói chung. Biến cố quy mô này rõ ràng càn quét toàn bộ ảnh hưởng của các cụm người Hán đã đóng rễ từ lâu đời, không thể khôi phục trong thời gian ngắn được. Sự thay đổi cơ cấu dân số đó tất yếu làm giảm mức độ liên kết với nhà nước cai trị, và còn dẫn đến việc cộng đồng bản xứ vươn dậy, góp phần mở ra kỷ nguyên độc lập.

Một yếu tố chính yếu đóng góp vào nền độc lập là việc Đồng bằng sông Hồng liên tục mở rộng về phía biển đã làm gia tăng đáng kể quy mô của cộng đồng ở Bắc Bộ Việt Nam. 

Đồng thời, nhờ vùng đất thấp phía bắc núi Tam Điệp hình thành, kết nối khu vực ngày nay là Bắc Trung Bộ, thay vì phải đi bằng đường biển hoặc băng qua những núi đá hiểm trở. Giao thông thuận tiện giúp miền trong phát triển, khiến An Nam có thêm một hậu phương đầy tiềm lực, trở thành một thách thức đối với việc cai trị của người Trung Quốc. Các thủ lĩnh họ Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Lê, Lý và dân chúng từ cả miền ngoài lẫn miền trong kế tiếp nhau nổi lên, ngày càng vững chắc. Sau hơn hai thế kỷ mất quyền kiểm soát, Trung Quốc rút cục đã chính thức từ bỏ tên gọi Giao Chỉ, vào năm 1164 khi họ công nhận xứ sở này là An Nam quốc và nâng cấp công nhận Lý Thiên Tộ (Lý Anh Tông) từ Giao Chỉ quận vương thành An Nam quốc vương. 

Kiến giải trên về sự liên kết giữa hai khu vực là phù hợp với những dữ kiện địa lý, địa chất. Tuy nhiên, căn cứ trên sử sách xưa nay thì Giao Chỉ ở miền bắc, Cửu Chân, Nhật Nam ở miền trung xuất hiện cùng thời và đã có sự liên kết từ rất sớm, chẳng hạn trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Như vậy là mâu thuẫn. Vì sao lại như vậy? Ở phần tiếp theo, tác giả sẽ cố gắng làm sáng tỏ vấn đề này. 

Trích dẫn, chú thích

1. Các con số này được Keith Weiller Taylor trích dẫn và tổng hợp dựa trên Hán thư, tờ 28b,10a. Xem Việt Nam thời dựng nước, Nxb Dân Trí, xb 2020, trang 97

2. Tam quốc chí – Ngô thư – Q4 – Lưu Do, Thái Sử Từ, Sĩ Nhiếp – Sĩ Nhiếp truyện. Theo An Nam truyện, Châu Hải Đường soạn dịch, Nxb HNV, xb 2018, tr 199

3. Tấn thư – Q57 – Đào Hoàng truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr 205

4. Tam quốc chí – Ngô thư – Q4 – Lưu Do, Thái Sử Từ, Sĩ Nhiếp – Sĩ Nhiếp truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr 200

5. Tấn thư – Q57 – Đào Hoàng truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr 202

6. Đinh Khắc Thuân, Văn bia Hán Nôm Việt Nam – Từ khởi thủy đến thời Lý – Trần, Nxb Khoa Học Xã Hội, xb 2017, tr 27,28

7. Hán thư – Q95 – Tây Nam di, Lưỡng Việt, Triều Tiên truyện – Nam Việt truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr185

8. Tấn thư – Q57 – Đào Hoàng truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr 205

9. Nam Tề thư – Q58 – Man, Đông(Di), Nam Di. Theo Theo An Nam truyện, sđd, tr 261,262

10. Tùy thư – Q53 – Lưu Phương truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr 215

11. Hậu Hán thư – Q86 – Nam man, Tây nam di liệt truyện – Nam man truyện. Theo Theo An Nam truyện, sđd, tr 188

12. Tân Đường thư – Q201 – Lưu Phương truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr 219

13. Tân Đường thư – Q170 – Triệu Xương truyện. Theo An Nam truyện, sđd, tr 222

Cre: : Hoàng Cương

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *