Tại sao chúng ta thường dùng “X” trong các công thức thay vì những kí tự khác?

Bởi vì một người đàn ông Pháp quyết định rằng nó nên như thế, cũng có thể là do máy in của ông ấy hết chữ.

Trước đây, có một người đàn ông người Pháp viết một quyển sách. Cụ thể, chính là người đàn ông Pháp trong hình.

Đấy là René Descartes. Bên cạnh Napoleon, ông ấy được cho là người Pháp nổi tiếng nhất. Ông ấy đóng góp nhiều thứ cho Triết học hiện đại và cả câu nói “Cogito ergo sum” (“Tôi tư duy, nên tôi tồn tại”).

Một thứ khác mà ông ấy đóng góp – đúng hơn là vài thứ khác thì đúng hơn – là một trong những đóng góp quan trọng nhất cho toán học mà không phải do một người Hi Lạp nào tạo ra. Ông ấy cần phải kể với mọi người về những thứ này, vậy nên ông chọn việc viết ra một vài quyển sách. Ông ấy cần phải làm ra thật nhiều bản cho các quyển sách của mình, vậy nên ông phải chúng đem in. (Một lựa chọn khác, cũng là phương pháp chính được sử dụng ở châu u trước khi Gutenberg phát minh ra việc in ấn, là viết tất cả mọi thứ bằng tay, hết cuốn này tới cuốn khác.)

Trong cuốn sách La Géométrie của ông ấy, Descartes sử dụng x, y và z để đại diện cho các biến ẩn số. Chúng ta không hoàn toàn chắc chắn rằng tại sao ông ấy lại chọn như vậy – nó có thể chỉ là vì những ký tự này nằm ở phía cuối bảng chữ cái – nhưng theo một giả thuyết chó rằng đó là bởi vì máy in của ông ấy có quá nhiều ký tự này thừa ra.

Ở thời đó, máy in (đúng hơn là compositors) không phải là một cái máy, mà là gồm những người sẽ lấy các ký tự từ trong hộp ra và sắp xếp chúng thật một con dấu khổng lồ, con dấu này sau đó có thể được dùng để in lên một tờ giấy. (Hình 2)

(Một chú thích khá thú vị: Những ký tự nhỏ hơn (ký tự thường), thường được dùng nhiều hơn, sẽ được đặt ở cái khung phía dưới hộp để khiến chúng dễ lấy hơn, vậy nên nó được gọi là “lower case letters”. Những ký tự in, bởi vì được dùng ít hơn, được đặt ở khung phía trên cùng, vậy nên chúng gọi là “upper case”. Đó là lý do vì sao mà chúng ta có những cụm từ đó thời nay.)

Trong tiếng Pháp, các ký tự X, Y và Z thường không phổ biến, nên các thợ in thường ít khi dùng hết chúng hơn là những ký tự khác (ngoài K). Giả thuyết cho rằng Descartes chọn những ký tự này để đại diện cho những ẩn số không chỉ bởi vì chúng nằm ở cuối bảng chữ cái mà còn là theo lời khuyên của các thợ in.

Dù có phải là sự thật hay không, việc sử dụng X, Y và Z làm các ẩn số lần đầu tiên được tìm thấy trong quyển La Géométrie, một quyển sách liên kết hình học và đại số lại với nhau và cống hiến rất nhiều cho sự phát triển của toán tính.

Cũng có rất nhiều những giả thuyết khác cho rằng X là từ viết tắt cho Xenos (“unknown”/“lạ”) trong tiếng Hy Lạp hay là một từ viết tắt trong tiếng Tây Ban Nha cho phiên âm của một từ tiếng Ả rập là Al-shalan, nhưng có rất ít bằng chứng về cả hai giả thuyết trên và nó gần như chỉ là suy đoán. Sự xuất hiện đầu tiên có bằng chứng là La Géométrie.

Kể từ đó, nó đã phát triển để đại diện cho những gì chưa được biết đến trong văn hóa đại chúng, ví dụ như X-Files hay X-men.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *