VĂN HÓA ĂN UỐNG Ở HÀN QUỐC

Bài đăng này là sự hiểu biết của tôi về bữa ăn trong văn hóa Hàn Quốc và cách thực hiện. Con người chúng ta thường nạp một lượng thức ăn lớn chia ra vài lần mỗi ngày. Chúng ta đặt cho chúng những cái tên như “bữa sáng”, “bữa trưa” và “bữa tối”. Tuy nhiên, có sự khác biệt cụ thể giữa các nền văn hóa và các quốc gia, ngay cả khi chúng được chia sẻ thì cách mà họ ăn uống vẫn có thể khác nhau. Trong văn hóa Hàn Quốc, có cả bữa sáng, trưa tối. Tuy nhiên, xét về những khía cạnh trong bữa ăn thì khó để so với phương Tây nơi mà đang thống trị “tiêu chuẩn ăn uống” của thế giới.

#1: Một bữa ăn trong văn hóa Hàn gồm những gì?

Bản thân khái niệm “bữa ăn” không khác phương Tây là mấy. Trong tiếng Hàn bữa ăn là siksa (식사, 食事), nó có nghĩa là “việc ăn uống”. Siksa là một việc diễn ra thường xuyên mà con người ăn thực phẩm theo thói quen hằng ngày của họ. Nó gồm bữa sáng (아침식사 or 아침), bữa trưa (점심식사 or 점심), và bữa tối (저녁식사 or 저녁).

Thời gian dùng bữa có thể khác nhau tùy từng người. Ngày nay, rất nhiều người bỏ bữa sáng bởi vì đây là một thói quen đôi khi là khó hoặc đơn giản là họ thức dậy muộn đặc biệt nếu đó là sinh viên đại học.

#2. Đặc trưng của bữa ăn Hàn Quốc

Mặc dù bữa ăn của người Hàn cũng có 3 bữa giống phương Tây, nhưng vẫn có nhiều điểm khá là khác biệt với họ.

(1) Bữa ăn người Hàn không phân biệt rõ rệt đâu là sáng trưa tối giống như phương Tây.

Ở nước ngoài, bữa sáng, bữa trưa và bữa tối có thể hiện hình ảnh ucar họ. Bữa sáng thì đơn giản và nhẹ nhàng, trưa thì ăn sandwishes, còn bữa tối thì đặc biệt và được mong chờ nhất.

Tuy nhiên, trong văn hóa Hàn Quốc, bữa ăn dù đơn giản nhưng vẫn là một bữa ăn. Về cơ bản không có nhiều sự khác biệt trong cả ba bữa ăn. Thức ăn dùng cho bữa sáng cũng có thể ăn vào bữa trưa hay tối. Tuy nhiên, có một điểm nhỏ là mọi người ít ăn thịt vào bữa sáng.

(2) Bữa ăn Hàn có xu hướng phân biệt rõ ràng đồ nào có trong bữa ăn hoặc không

Ở phương Tây, không có danh giới rõ ràng giữa thực phẩm dành cho bữa ăn chính hay bữa nhẹ. Ví dụ: một người có thể ăn bánh crepes hay hot cakes (pan cakes) thì họ coi như xong một bữa ăn rồi, họ hiểu là họ đã tiêu thụ ngũ cốc vào bữa sáng.

Tuy nhiên, người Hàn có xu hướng phân biệt rõ đâu là món cho bữa chính và đâu là không. Bánh mì rất khó trở thành bữa ăn của người Hàn mà nó chỉ được coi là bữa ăn nhẹ. Vậy nên, bánh crepes và hot cakes sẽ rất rất khó trở thành thực phẩm cho bữa ăn. Tuy nhiên thì Sanchwiches và hamburgers lại được coi thực phẩm trong bữa ăn, điều này do ảnh hưởng từ Mĩ vào thế kỉ 20.

Ở Hàn Quốc, có một cụm từ “아침/점심/저녁을 X(으)로 때우다”. Động từ때우다 (ttaeuda) nghĩa là “dễ dàng thay thế”. Do đó, nó nghĩa là “dễ dàng thay thế bữa sáng/ trưa/ tối với X”, và được sử dụng khi họ ăn một cái gì đó mà dường như không phải thức ăn cho bữa ăn dù lúc đó là một trong ba bữa chính. Ví dụ: nếu họ ăn bánh crepes vào bữa trưa, thì có thể nói là họ thay thế bữa trưa bằng bánh crepes. Một số thậm chí đã nói họ thay thế bữa ăn của mình bằng một cái hamburger. Điều này cho thấy họ thực sự đã thiết lập một danh giới rõ ràng giữa thực phẩm trong bữa ăn và thực phẩm không dùng trong bữa ăn

MÁ ƠI, VẬY THỰC PHẨM CHO BỮA ĂN LÀ CÁI QQ GÌ?

(3). Cơm là món chính trong bữa ăn của người Hàn

Đây là yếu tố lớn nhất để quyết định đâu là thực phẩm được dùng trong bữa ăn hay không. Gạo là lương thực chính trong văn hóa ẩm thực Hàn Quốc. Và bữa ăn luôn luôn có gạo ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt như là mì hoặc bánh bao. Mì và bánh bao từ lâu đã được coi là thực phẩm cho bữa ăn, nhưng bánh mì thì hoàn toàn không phải. Không cần biết món ăn chính ngon nghẻ như thế nào, cơm là điều kiện cần trừ khi bàn ăn đó phục vụ theo phong cách phương Tây.

Trong một bát cơm, về cơ bản gồm kim chi và soup – canh (국) được kết hợp với nhau. Tuy nhiên, truyền thống hay xu hướng này dần mất đi ngoại trừ việc chọn cơm là món chính trong bữa ăn.

(4) Rất nhiều banchan (các món phụ ăn với cơm) được chuẩn bị trên bàn ăn

Banchan (반찬, 飯饌) là tên gọi chung chỉ các loại món ăn phụ được ăn với cơm trừ soup. Theo truyền thống, kimchi cũng không được đưa vào danh sách banchan.

Nếu bạn đến một nhà hàng Hàn Quốc, thì có thể quan sát rằng họ bày rất nhiều món ăn trên bàn. Đó là văn hóa banchan. Ngày nay, đôi khi người ta chỉ trích rằng nó làm tăng tốc độ lãng phí thực phẩm, nhưng với nền văn hóa này, bạn gần như có thể đưa ra khái niệm thế nào là dành cho bữa ăn hay không. Nói một cách nôm na là thực phẩm không được bày biện trên bàn không phải để dùng trong bữa ăn.

(5) Không có văn hóa tráng miệng

Theo truyền thống, Hàn Quốc hiếm khi có văn hóa món-tráng-miệng. Như tôi đã nói trước, bữa ăn dù đơn giản như nào thì cũng không bao gồm các món như khai vị hay tráng miệng. Đây là lí do tại sao người Hàn thường đi cà phê sau khi họ dùng bữa ở nhà hàng. Người Hàn không coi món tráng miệng là một phần của bữa ăn mà là một món ăn nhẹ SAU bữa ăn.

#3. Sự khác biệt với văn hóa ăn uống của người Nhật

Thật thú vị khi so sánh giữa hai nền văn hóa mà dường như giống nhau ở rất nhiều khía cạnh. Văn hóa bữa ăn Hàn Quốc và Nhật Bản dường như có nhiều điều trùng hợp ở góc độ vĩ mô. Tuy nhiên, có rất nhiều người Hàn cảm thấy không thấy thoải mái khi họ hiểu nhầm người Trung Quốc hay người Nhật Bản là sẽ tốt hơn nếu họ hiểu về khác biệt và những điều đó rõ ràng và quan trọng như thế nào.

Dưới đây là một vài điểm chính khác biệt giữa văn hóa Hàn Quốc và Nhật Bản

(1) Cầm bát lên hoặc đặt bát xuống

Trong văn hóa Hàn Quốc, mọi người không cầm bát lên hay đặt mà xuống bàn nếu họ không thực sự cần. Tất nhiên, ngày nay vẫn ổn thôi, bạn có thể cầm bát lên nếu muốn Tuy nhiên, có điều quan trọng là điều này không miêu tả một người Hàn. Giả sử bạn đang xây dựng hình ảnh nhân vật Hàn Quốc cho một bộ phim truyền hình hoặc hoạt hình. Nếu bạn miêu tả tuýp nhân vật dựa trên hình mẫu văn hóa Nhật Bản, thì hẳn rồi người Hàn Quốc sẽ rất khó chịu vì điều đó mang lại những hiểu biết sai lệch về văn hóa Hàn Quốc.

(2) Sử dụng thìa

Thìa được sử dụng cả ở Hàn và Nhật, nhưng trong bữa ăn hằng ngày, người Hàn sử dụng thìa thường xuyên hơn. Người Hàn sử dụng thìa để xúc cơm và canh trong khi người Nhật chỉ dùng đũa. Ngày nay, nhiều người Hàn dùng đũa khi ăn cơm, nhưng họ vẫn không uống canh giống người Nhật.

(3) Nghi thức trước và sau bữa ăn

Cả người Hàn và Nhật đều có những nghi thức riêng trước và sau bữa ăn, đặc biệt đối với bố mẹ hoặc người lớn tuổi. Những người Hàn hay nói “잘 먹겠습니다 (Jal meokgesseumnida)” trước bữa ăn và “잘 먹었습니다 (Jal meogeosseumnida)” sau bữa ăn. Còn người Nhật thì hay nói “いただきます (Itadakimasu)” trước bữa ăn và “ごちそうさまでした (Gochisousama deshita)” sau khi ăn xong.

Tuy nhiên, cách họ hành động lại khác nhau.

Người Nhật đặt tay lại với nhau khi họ nói trong khi người Hàn thì không. Thực ra, văn hóa Hàn Quốc rất đơn giản khi ăn uống, như tôi đã đề cấp đến. Có thể đối với những thông tin của bạn, Hàn Quốc là quốc gia ít liên quan nhất so sánh với Trung Quốc hay Nhật. Không phải không thuộc Đông Á thường liên hệ điều này với những người Đông Á, nhưng gần như không giống Hàn Quốc.

(4) Phát ra tiếng khi ăn (tiếng xì xụp khi ăn)

Thêm một sự khác biệt nữa. Trong văn hóa Nhật Bản, họ thường khuyến khích bạn tạo ra những tiếng như xì xụp khi ăn mì như vậy có nghĩa là “Chúng tôi rất thích món mì của bạn”. Tuy nhiên, điều này lại không tồn tại trong văn hóa Hàn Quốc. Nhưng nó không có nghĩa là bạn cần phải quá thận trọng để không tạo ra tiếng động khi ăn mì. Người Hàn Quốc để cho tiếng động đó phát ra tự nhiên, không phải cố ý.

One comment

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *