Giotto và Cimabue: Cha đẻ và ông nội của Phục hưng Ý

Bài viết này thảo luận về nguồn gốc khởi đầu của Phục hưng Ý. Không giống như những phong trào nghệ thuật khác có người sáng lập và tuyên ngôn rõ ràng, Phục hưng Ý là tập hợp những ảnh hưởng đỉnh cao của văn hóa, văn học, nghệ thuật và triết học trong một thời gian dài.

Đã có rất nhiều phong trào nghệ thuật lớn của phương Tây qua nhiều thế kỉ, một số thì dần dần lan rộng nhưng cũng có một số phong trào phát triển chỉ trong một đêm. Thường thì chỉ có một cá nhân có thể được xem là “cha đẻ” của phong trào đó, 1 hình mẫu quan trọng chịu trách nhiệm cho những thay đổi cơ bản của nghệ thuật. Và đôi khi chúng ta còn có “ông nội” của “cha đẻ” – người có tầm ảnh hưởng đến người sáng lập phong trào nhưng chịu ảnh hưởng của phong cách trước đó quá nhiều nên không tạo được bước nhảy vọt.

Về nguồn gốc của nghệ thuật hiện đại, chúng ta có thể xác định không chỉ 1 cá nhân cụ thể mà còn cả ngày: 16/01/1907 khi Pablo Picasso giới thiệu tác phẩm của ông “Les Demoiselles d’Avignon” (tạm dịch: Những cô gái ở Avignon) và khởi đầu cho cuộc cách mạng nghệ thuật hiện đại. Picasso đã trở thành “cha đẻ” của nghệ thuật hiện đại, còn Cezanne chính là “ông nội”.

Vào tháng 4 năm 1874, một ranh giới khác đã được vượt qua khi Monet, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, trình làng bức tranh phong cảnh của ông ấy, “Ấn tượng: Mặt trời mọc”. Dù chính ông đề lên bức tranh là lấy cảm hứng từ Edouard Monet, người truyền cảm hứng cho trường phái Ấn tượng nhưng không bao giờ hoàn toàn chấp nhận phong trào này.

Carravaggio cũng là vĩ nhân khi trình làng phong cách nghệ thuật Baroque với khung cảnh kịch tính và ánh sáng ấn tượng kéo dài 100 năm. Và liệu Carravagio sẽ ở đâu nếu thiếu đi kĩ thuật chiaroscuro học được từ Da Vinci?

Điều này dẫn chúng ta đến với sự ra đời của thời kỳ Phục hưng và cũng chính là nhân vật chính của bài viết này. Cái mà chúng ta gọi là Phục hưng chính là sự phát triển dần dần bắt nguồn từ nhận thức cá nhân của con người hơn là vị trí và mục đích của mỗi cá nhân trong thế giới (hay còn gọi chủ nghĩa nhân văn). Điều này bắt nguồn từ một dịch bệnh đã làm thay đổi vĩnh viễn vùng đất Châu Âu bấy giờ. Nhưng phong cách Byzatine ngàn năm tuổi (còn được biết đến với cái tên quốc tế Gothic) như một truyền thống bất biến (vẫn tồn tại ở Chính thống giáo Phương Đông). Tuy vậy, từ cái truyền thống này đã ra đời Giotto, cha đẻ của nghệ thuật Phục hưng Ý. Vậy ai là “ông nội” của Phục hưng Ý? Đó sẽ là Cimabue, có thể là thầy giáo của Giotto, nhưng chắc chắn là người mà Giotto chịu ảnh hưởng nhiều nhất.

Xin chúc mừng nếu bạn đã đọc đến đây. Tôi biết các bài viết không nên quá dài nhưng để làm nổi bật Giotto và Cimabue nhiều nhất có thể mà vẫn ngắn gọn thì đã quá khó với tầm quan trọng của họ. Vì vậy, trọng tâm của cuộc thảo luận đây:

Điều gì phân biệt Giotto với Cimabue và với những người cùng thời? Bức hình đầu tiên của bài viết đã đặt 2 tác phẩn của Giotto và Cimabue kế bên nhau để so sánh, “Maestà” – Đức Mẹ đồng trinh lên ngôi, ôm Chúa hài đồng, ngồi trên ngai vàng và vây quanh là các Thánh và/hoặc Thiên thần. Cimabue sinh vào thời kì Trung cổ thế kỉ 13 ở Florence tuy nhiên ông đã đưa vào sự tự nhiên có ý nghĩa hơn vào nghệ thuật Byzatine đang thịnh hành. Tuy nhiên phông nền vẫn là những lá vàng và tấm toan của ông được cách điệu (dát vàng nhiều hơn). Tác phẩm của ông, mặc dù đẹp, nhưng là biểu tượng theo khuôn mẫu và quy tắc truyền thống. Tác phẩm “Crucifix” của ông được đính kèm ở trên, cũng là một hình ảnh mô tả hơi nhạy cảm về Chúa, nhưng vẫn đi theo những biểu tượng khuôn mẫu được biết đến từ nhiều thế kỉ trước.

Với Giotto: “Maestà” của ông đưa vào nhiều hình dáng cân đối tự nhiên hơn, những gương mặt tròn trịa hơn được hiển thị với chiều sâu và cảm xúc hơn. Các Thiên thần và vị Thánh chồng chéo nhiều lớp, chứ không chỉ xếp chồng lên nhau trong một mặt phẳng đơn nhất. Và các tấm vải choàng rũ tự nhiên ở từng nhân vật, đặc biệt là Đức Mẹ và Chúa hài đồng. Các lớp dát vàng đã biến mất, thay vào đó là vẽ bóng đổ và ánh sáng. Cuối cùng, phông nền lá vàng sẽ được thay thế bằng nền bầu trời xanh.

Giống người tiền nhiệm Cimabue, Giotto cũng vẽ rất nhiều bức bích họa của Nhà thờ San Francesco vĩ đại ở Assisi. Một ví dụ như vậy từ nhà thờ trên trong bài viết này, “Exorcism of the Demons at Arezzo” (1 chi tiết trong cuộc đời của Tháng Francis cho thấy bầu trời xanh của Giotto và phối cảnh không gian tuyệt vời hơn. Mặc dù phối cảnh hình học (chính xác về mặt quang học) vẫn chưa được phát triển hoặc được ứng dụng trong hội họa. Giotto thể hiện rõ phối cảnh không gian quan sát được, điều mà phần lớn luôn bị bỏ qua cho đến lúc đó.

Nhưng kiệt tác của Giotto phải là Nhà nguyện Scrovegni ở Padua. Tôi đã đến đó một vài lần và nó là một kho báu đáng kinh ngạc. Kì quan này của nhà nguyện đã tồn tại cho đến ngày nay và chúng ta có thể thấy Giotto đã vẽ từng inch thạch cao lộ ra ngoài với những cảnh trong Thánh kinh cũ và mới. Những Thiên thần than khóc của ông thể hiện chiều sâu cảm xúc chưa bao giờ được thể hiện trong hội họa. Họ phóng chiếu lên bức tường bằng luật xa gần, một dạng phối cảnh mới của Phục hưng.

Nhà nguyện Scroveigni và thánh đường ở Assisi là những công trình đầy tham vọng. Tiếng tăm của những kiệt tác này (và cả những trợ lý của ông) đã giúp phổ biến chủ nghĩa hiện thực mới của ông trên toàn nước Ý. Một số gọi thời kì này là Tiền Phục hưng. Cuối cùng là những danh họa của thời kì Phục hưng Sơ kì như Masaccio (họa sĩ đầu tiên sử dụng phối cảnh tuyến tính vào hội họa), Fra Angelio, Fra Filippo, Paolo Uccello (đã up bài vào hôm qua), Antonio da Messina (người giới thiệu tranh sơn dầu vào nghệ thuật Ý), Ghiberti, Donatello và rất nhiều họa sĩ khác – tiếp tục được truyền cảm hứng từ việc khám phá lại nghệ thuật Hy Lạp La Mã – đã đóng góp sớm cho những điều cuối cùng đã lên đến đỉnh điểm mà ngày nay chúng ta gọi là Phục hưng Đỉnh cao (minh chứng bởi Da Vinci, Michelangelo và Raphael).

Lưu ý và điểm chính cuối cho cuộc thảo luận này là một vài dòng bình luận của Vasari. Thực tế, không hề có điều gọi là tiến trình phát triển tuyến tính “luyện tập” trong nghệ thuật như Vasari đã tin tưởng, và sự thiên vị với những đồng hương Florence của ông đã định hình quá mức quan điểm của ông. Với nghệ thuật Sienese, Flemish và Venetian, chúng có sự phát triển song song, và sức ảnh hưởng theo cả 2 hướng (đương nhiên nghệ thuật Flemish vào những năm 1400 thì ảnh hưởng đến nghệ sĩ Ý nhiều hơn là ngược lại). Vì vậy việc bỏ qua nghệ thuật đến từ những nền văn hóa và quốc gia khác vào thời điểm đó rất thiển cận. Nhưng, điều này có thể sẽ được bàn trong bài viết tiếp theo. Tuy nhiên với tất cả những lỗi lầm, những lần cường điệu của ông, Vasari đã đúng khi đánh giá “Giotto đã khôi phục mối liên kết giữa nghệ thuật và thiên nhiên”. Tóm lại, ông ấy là cha đẻ của thời kì Phục hưng Ý.

_____________________

Dịch bởi Αέλια

“Maestà“, Cimabue (trái) và Giotto (phải)
Cimabue, “Crucifixion”, Santa Croce, Florence, 1287-88
Giotto, “Exorcism of the Demons at Arezzo”, Assisi, 1297-99
Giotto, Nhà nguyện Scrovegni, Padua, 1305

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *