“Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng.”
-Trần Hưng Đạo, Tổng tư lệnh chỉ huy quân đội Việt Nam thời nhà Trần, Cơn ác mộng đối với Đế quốc Mông Cổ
Một bức vẽ về Trần Hưng Đạo – Anh hùng Dân tộc Việt Nam – (click vào link gốc để xem – nd):
Thực sự, người Việt Nam ngày nay vẫn rất tự hào về con người này, một người yêu nước đích thực mà chúng tôi sẽ luôn biết ơn vì khoảng thời gian ấy. Và tất nhiên, chúng tôi vẫn tự hào về sự mở rộng của Triều đại nhà Trần (1225-1400 sau Công nguyên (scn)) và của thời Tiền Lý (1009-1225 sCN), cả hai sẽ được trình bày ngắn gọn dưới đây.
Dù sao thì, nhà Trần đã đánh bại sức mạnh liên lục địa đầu tiên trên thế giới, vào thời điểm mà quy mô, dân số và sự tàn bạo quyết định tất cả, 3 lĩnh vực mà Việt Nam đều đặc biệt thiếu, còn Đế quốc Mông Cổ đã chinh phục nửa thế giới văn minh lại có thừa.
Và ba lần Quân đội nhà Trần đã thành công trong việc chống lại Đế quốc Thảo nguyên. Ba lần, Việt Nam chiến thắng ngay cả khi Ba Tư, Ả Rập và cả nhà Tống Trung Quốc không thể. Ba lần, quân Mông Cổ hứng chịu thất bại nhục nhã từ sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhà Trần.
Nhưng trước khi chúng ta tiếp tục, hãy so sánh để một người có thể hiểu cột mốc lịch sử đó có ý nghĩa như thế nào, một sự kiện được ví như một nhiệm vụ cỡ Héc-quyn lúc đó (và thậm chí cả đến ngày nay).
Dưới đây là Đế quốc Mông Cổ. Trải rộng trên một diện tích 24 triệu km2 khiến cho nó trở thành đế chế lớn thứ hai tính theo diện tích đất liền kể cả trong Lịch sử Nhân loại (VN ngày nay chỉ khoảng 1/3 triệu km^2 – nd), chiếm khoảng 16.11% tổng diện tích bề mặt Trái Đất. Họ có dân số khoảng 100 triệu người lúc đỉnh điểm:
Để so sánh, dưới đây là một tấm bản đồ của Triều đại nhà Trần. Khá tương phản với Đế quốc Mông Cổ hùng mạnh, nhà Trần Việt Nam chỉ có diện tích đất khoảng 158.000 km2 (0,66% diện tích của Đế Quốc Mông Cổ), với dân số trong năm thành lập (1225 sCN) khoảng 2,5 triệu người (chỉ bằng 2,5% những gì Mông Cổ có), vào đêm trước cuộc Xâm lược Mông Cổ:
Như đã được chỉ rõ ở phía trên, có vẻ như vào thời điểm đó, dường như số phận của Việt Nam đã được định đoạt rõ ràng. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh điều ngược lại, đó không phải là những gì đã xảy ra trong thực tế.
Sự thực không phải như vậy, và còn hơn thế nữa, vì theo thời gian Việt Nam sẽ chứng minh được chiến thắng trước Mông Cổ hùng mạnh, sự độc lập của quốc gia ấy đã được trọng vẹn trong hàng trăm năm tới.
Vậy chính xác những gì đã xảy ra sau đó? Tôi sẽ cung cấp cho bạn các chi tiết.
________________________________________
Đối với những người không có tính kiên nhẫn, tôi cần có nghĩa vụ nhắc nhở bạn rằng câu trả lời của tôi sẽ dài (giống như tất cả các câu trả lời khác của tôi trong thời gian gần đây), rất dài với thực tế rằng nó có khoảng 7700 từ (mình phục mình vãi – nd). Tuy nhiên, tất cả đều là cần thiết vì tôi cũng sẽ trình bày ngắn gọn các triều đại Lý và Trần, những điều cũng rất quan trọng đối với người dân Việt Nam.
Đây là các phần để bạn dễ dàng định vị:
• Chương I: “Giặc Đến Cổng”: Sự trỗi dậy của Đế quốc Thảo Nguyên bất bại
• Chương II: “Sự trỗi dậy từ phương Nam”: Sự Thành lập Triều đại Trần Hùng mạnh:
• Lời mở đầu của Chương III
• Chương III: “Triều đại phản công”: Chiến dịch của Việt Nam nhằm chống lại Mông Cổ
________________________________________
Chương I: “Giặc Đến Cổng”: Sự trỗi dậy của Đế quốc Thảo Nguyên bất bại
Khi đứa trẻ đó được sinh ra, thế giới mà cậu đã bị đặt vào một cách bắt buộc có thể được mô tả như một nơi bạo lực, không trật tự và do đó rất hỗn loạn.
Gia đình cậu, gần như là một trong số nhiều gia đình bị trói buộc với nhau như một việc cần thiết để hợp tác. Điều này đã diễn ra được bao lâu, không ai thực sự biết. Nhưng nó đã trở thành việc bình thường, và do vậy đó là cách sống được chấp nhận.
Thực sự, chính ý nghĩ về bản sắc được gọi là “Bộ lạc” đã bị nhồi nhét vào đầu cậu, bởi không ai khác ngoài chính cha cậu, người đã dạy cậu rằng đó là bộ lạc của cậu, và bộ lạc của cậu là cuộc đời của cậu, và trên thực tế đó là toàn bộ cuộc sống của cậu.
Cậu sống và thở để phục vụ cho bộ lạc, và tuyệt đối không điều gì được đặt trên bộ lạc. Nếu cậu chống lại bộ lạc, sẽ không có ai để cậu nhờ vả, đặc biệt cha cậu nhấn mạnh điều này.
Cha cậu giải thích không có gì khác tồn tại ngoài bộ lạc. Không có cá nhân nào hay sự tự do hay sự thịnh vượng khi không có bộ lạc. Tuy nhiên theo một cách khá tò mò về việc này, đây không phải là hình thức tập thể duy nhất. Thực tế là có hơn hàng trăm, nếu không có hàng ngàn thứ tương tự, rải rác khắp vùng đồng bằng đầy cỏ của Mông Cổ.
Về cơ bản không có gì khác biệt nhiều, nhưng cũng rất lạ lẫm, không nơi nào muốn hợp tác, ít nhất theo cách mà bộ lạc của những gia đình của cậu bé mong muốn. Thay vào đó, đây là hình thức bộ lạc theo nghĩa đen nhất của nó, các phe phái khác nhau trên Thảo Nguyên bị chia rẽ một cách vô vọng bởi một mong muốn báo thù, và những ý nghĩ về sự vượt trội về văn hoá hay tôn giáo thay vì sự tham lam.
Bản đồ Đế quốc Hung Nô tồn tại từ năm 209 tCN đến năm 216 sCN, được tô màu da cam (cách đây khá lâu, các bộ lạc Mông Cổ thực sự đã từng được thống nhất, nhưng một khoảng thời gian dài kể từ đó đã qua, sự thật của một câu chuyện như vậy từ lâu đã được coi như một huyền thoại thông thường vào lúc mà Mông Cổ tồn tại sau đó 1000 năm):
Như vậy, khá an toàn và rõ ràng với tất cả các bộ tộc vào thời đó khi nói chắc chắn rằng hiện trạng (status quo – hiện trạng – nd) là một trong những thứ không bao giờ có thể thay đổi được, và có thể không bao giờ có được một Mông Cổ thống nhất?
Nhưng cậu bé đã đi ngược lại xu hướng của lịch sử, bất đồng một cách mạnh mẽ.
Bất chấp những lời dạy mà cha cậu đã truyền cho, cậu bé luôn luôn là một người nổi loạn và tự do. Sau khi học cách tự suy nghĩ từ khi còn nhỏ, cậu bắt đầu nhìn thấy cả tấm màn che của các quy tắc, và chiếc còng sắt của các chuẩn mực và kỳ vọng về văn hoá, vốn đã bị đàn áp từ lâu trong những người khác, nhưng lại không thể bị đàn áp trong bản thân cậu.
Và do đó, rõ ràng không hài lòng với hiện trạng (thứ mà cho đến khi đó vẫn được cho là không thể thay đổi), cậu bé đã thực hiện điều không thể tưởng tượng nổi, và nổi loạn.
Cậu ta có đầu óc của mình, độc lập với những gì mà bộ lạc vẫn nghĩ, và thậm chí khi cả thế giới nói ngược lại và cậu ta phải đi; để cậu thay đổi tâm trí của mình, cậu ta không thể làm được. “Không, ông phải đi mới đúng” là thái độ của cậu, và do đó cậu được trang bị với một ý chí kiên định sắt đá và kết hợp với trí tuệ sáng tạo mà tự nhiên đã ban cho, theo thời gian cậu trở thành một người đàn ông, và người đàn ông đó đã trở thành một kẻ chinh phục.
Ông ta cưỡi ngựa tới phương Đông và phương Tây, tập trung một nhóm nhỏ những người đi theo nhưng tăng dần lên, những người mà sau đó ông dẫn dắt với ý định chinh phục và thống nhất. Và như vậy theo thời gian, tất cả các bộ lạc Mông Cổ, từng bị chia rẽ lâu dài vì những khác biệt nhỏ, đã cam kết trung thành với đất nước mới được tuyên bố là “Đế Quốc Mông Cổ” (1206-1368 sCN).
Và cậu bé với cái tên Thiết Mộc Chân trước đây không bao giờ còn được biết đến như vậy nữa. Thay vào đó năm 1206, tất cả các tầng lớp quý tộc Mông Cổ đều trở thành một, thể hiện sự trung thành của họ đối với “Vua Mông Cổ”. Để làm vậy, họ đặt cho ông danh hiệu: “Thành Cát Tư Hãn” hay “Người Cai Trị Tất Cả những gì trên Đại Dương”. Và như vậy, đế chế lớn nhất trong lịch sử nhân loại, một kỷ lục được giữ trong 650 năm, được sinh ra, dưới sự lãnh đạo khôn ngoan của “Vua của các vị Vua”.
Một bức tượng về Thành Cát Tư Hãn trong Mông Cổ Đương Đại ngày nay:
Như vậy, vào thế kỷ 13, Đế quốc Mông Cổ mở rộng ra ngoài lãnh thổ với sức mạnh và tốc độ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Về phía Bắc, về phía Tây, về phía Đông, và quan trọng nhất, Đế quốc Thảo nguyên mở rộng về phía Nam.
Tất cả mọi người dù là ai, đều nhanh chóng gặp phải cái kết đau đớn và đầy bạo lực của họ trước sự vượt trội của quân Mông Cổ. Từ Ukraina đến Triều Tiên, trái tim của thế giới lỡ mất một nhịp khi nền văn hùng mạnh rơi vào sức mạnh của đế quốc Thảo Nguyên.
Ba Tư, Ả Rập và thậm chí cả Triều đại Tống bất bại cũng gặp cái kết đầy bạo lực của mình trước sức mạnh của người Mông Cổ. Thực tế sự xuất hiện của người Mông Cổ đã đặt dấu chấm hết cho cả Thời đại Vàng son của Trung Quốc và Thế giới Hồi giáo.
Trong tất cả những lần ra quân, vào cuối những cuộc chinh phục, người Mông Cổ đã giết và thảm sát rất nhiều người, một con số nào đó trong khoảng 40 triệu người bằng xung đột vũ trang, tổng kết từ những nạn nhân của các cuộc chinh phục từ Mông Cổ theo như các nhà sử học.
Kết quả cuối cùng của tất cả những cái chết và nỗi đau khổ này là đế quốc liên lục địa thực sự đầu tiên trên thế giới:
Sự vượt trội của Mông Cổ là điều không thể phủ nhận, cũng như vua Thành Cát ngồi ở đỉnh Đế quốc, an toàn và lộng lẫy với tất cả các sự ân sủng của mình, âu cũng là phù hợp khi Mông Cổ ngồi trên đỉnh thế giới, như là bậc tối cao không thể tranh cãi bậc. Không nước nào có thể thách thức họ, do đó điều gì khiến họ lo lắng, bây giờ hay sau này.
_______________________________________
.
Chương II: “Sự trỗi dậy từ phương Nam”: Sự Thành lập Triều đại Trần Hùng mạnh:
Đồng thời, trong khi Đế quốc Mông Cổ mở rộng ra ngoài, và có lẽ ngay cả trước khi Đế quốc Mông Cổ đã mở rộng, có một sự phát triển song song ở vào sâu phía Nam của châu Á, cách xa những hành động tra tấn tàn nhẫn của Đế quốc Thảo nguyên.
Thật vậy, từ khu vực được biết đến ngày nay là tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc, đã có một nhóm các cá nhân tuyên bố trung thành với một gia tộc “Trần” (陳).
Với mong muốn bắt đầu một cuộc sống mới, gia đình Trần đã đi xuống phía Nam, để lại sự an toàn cho ngôi nhà yêu dấu của họ, để tìm kiếm cuộc sống mới đầy của cải và sức mạnh.
Họ đào ngày càng xa hơn, họ đi liền hàng ngày, hàng tuần, nếu không phải khi gặp phải điểm dừng. Đã đi qua núi, rừng và các con sông, cuối cùng họ đã đến biên giới không bị ảnh hưởng của đích đến mà họ dự định.
Sau nhiều tháng di chuyển bất tận, gia đình nhà Trần đã chi phối triều đại Lý hùng mạnh của Việt Nam:
Vì danh tiếng rộng rãi như một quốc gia đang phát triển nhanh chóng và thịnh vượng của mình, gia tộc Trần đã từng hy vọng kiếm được lợi nhuận từ sự giàu có của quốc gia Việt Nam mới thành lập. Tất nhiên đây không phải là một kỳ công nhỏ, vì từ bỏ hoàn toàn cuộc sống hiện tại của mình bằng một cách mới và lạ hơn, không phải là thứ gì đó không có rủi ro và không nguy hiểm.
Quả thật, trước đây Việt Nam đã bị các đế chế Trung Quốc cai trị trong thời kỳ 1000 năm. Sau đó, với sự thất bại của Vương quốc Nam Hán Trung Hoa (917-971 sCN) trong cuộc chiến với Tướng Ngô Quyền nổi tiếng, cuối cùng Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập hoàn toàn từ lúc đó trở đi..
Tuy nhiên, mặc dù đã chiến đấu hết sức vất vả để bảo đảm độc lập, nhưng người dân Việt Nam vào năm 938 sCN không có cùng văn hoá như tổ tiên của họ từng có, trước khi họ bị vị Tướng nhà Tần – Triệu Đà – chinh phục năm 207 tCN.
Bản đồ sự thống trị củaTriệu Đà bao gồm các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc, và miền Bắc và Trung Việt Nam; Vương quốc Nam Việt (204-111 tCN):
Không, những người Việt Nam tại thời đó đã sống từ lâu theo một lối sống mà nhiều triều đại Trung Quốc bắt họ thi hành.
Đây là một trường hợp như vậy, khi người Việt Nam giành được quyền độc lập từ Trung Quốc, không có nguồn tham khảo nào để họ thay đổi cách sống ngoài người chủ cũ của họ, nhiều yếu tố của nền văn minh Trung Quốc tiếp tục được phân tích cẩn thận một lần nữa, trước khi được thừa nhận bởi các triều đại Việt Nam kế tiếp.
Đây không phải là vấn đề nhỏ mà lại một việc vô cùng quan trọng một cách khác thường. Không như các tỉnh khác của Trung Quốc, Việt Nam đã áp dụng văn hoá Trung Quốc, nhưng làm như vậy về mặt cơ bản giống như là một hình thức “tiêm chủng”, điều này cho phép người dân Việt Nam không chỉ củng cố nền văn hoá của mình mà còn duy trì sự độc lập.
Về cơ bản, việc Việt Nam tự nguyện chấp nhận văn hoá Trung Quốc đã thực sự ‘tiêm chủng’ cho họ chống lại sự chinh phục của Trung Quốc do đó là cả sự thống trị của Trung Quốc. Vì vậy, không giống như các bộ lạc, sắc tộc và các dân tộc mà Trung Quốc giành được một cách thành công từ lâu qua thời đại lịch sử của nó, Việt Nam sẽ không bao giờ có thể bị đồng hóa hoàn toàn theo cách ấy nữa. Việc phòng ngừa này có hiệu quả rất lớn.
Như vậy, triều đại nhà Lý, dù là một quốc gia hoàn toàn độc lập, đã thấy được lý do thích hợp để nghiên cứu cẩn thận quyền lực của triều đại nhà Tống Trung Quốc láng giềng (960-1279 sCN), và tiến tới tìm cách bắt chước sự thịnh vượng của nó.
Đến mức này, đế chế nhà Lý đã thành công hoàn toàn, và dưới sự cố gắng cai trị của gia tộc nhà Lý, đất nước đã bước vào “Thời kỳ Vàng son” đầu tiên. Các công trình lớn đã được thực hiện trên khắp đất nước để kỷ niệm các ý thức hệ quốc gia về Phật giáo và Khổng giáo.
Xây dựng những Đại học Quốc gia đầu tiên của Việt Nam; “Quốc Tử Giám” chẳng hạn, được tạo ra trong thời Lý (xây dựng vào năm 1010 sCN) để tôn vinh Khổng giáo:
Tương tự, văn hoá phổ biến dưới hình thức nghệ thuật và kiến trúc được xây dựng để tôn vinh Phật giáo:
Trong khi đó, ở cấp chính trị, Hệ thống Thi tuyển Dân sự nổi tiếng đã được thông qua và thực hiện đầy đủ, cho phép Triều Lý trở thành một quốc gia được điều hành tốt, trong đó một đội quân chuyên nghiệp của các quan chức triều đình được chọn dựa hoàn toàn vào công lao đã được sử dụng để điều hành Việt Nam hiệu quả.
Nối bước từ những chuẩn mực của triều đại Tống, quá trình Thi 3 Giai đoạn đã được thông qua hoàn toàn. Tất cả các sĩ tử thi “Trạng Nguyên” đều được kiểm tra thông qua một quá trình “lửa thử vàng”.
Thí sinh lý tưởng phải là người có “trí tuệ minh mẫn” ít nhất là theo quan điểm Khổng học. 5 giá trị Khổng học: Công bằng, lòng Dũng cảm, Trách nhiệm, Kỷ luật và lòng Trung thành là những đặc điểm quan trọng để một Trạng Nguyên thành công để chiến thắng trong kỳ thi. Không có một đặc điểm tính cách nào của vị Trạng Nguyên tiềm năng bị bỏ sót, tất cả đều được kiểm tra kỹ lưỡng, và anh ta bị từ chối ngay cả khi những lỗi nhỏ bị tìm thấy.
Điều này, kết hợp với thực tế là một thí sinh lý tưởng sẽ phải ghi nhớ hàng ngàn chữ cái Trung Quốc (ngôn ngữ viết chính thức), và cũng chỉ các văn bản chính trị, quân sự và triết học quan trọng nhất, được đóng góp vào quá trình dài dòng phiền nhiễu đã được sử dụng để chọn những thí sinh. Tất nhiên hy vọng là bằng cách tạo ra một quá trình dài dòng và nhàm chán như vậy, chỉ có những cá nhân chân thành nhất mới có thể cạnh tranh để có quyền cai trị quốc gia.
Bằng cách này, Triều đại Lý trở thành một trong những đất nước được cai trị tốt nhất trên thế giới. Dưới đây là bức vẽ của một họa sỹ về Trạng Nguyên Việt Nam (bên phải) đứng bên cạnh Lý Hoàng Đế (nguồn: Tim Tran):
Việc nhấn mạnh đến sự công bằng và tính chăm chỉ đã trở thành tiêu chuẩn trên khắp Việt Nam trong một chừng mực nào đó, nó đóng vai trò trực tiếp với lợi ích của gia tộc Trần mới được nhập cư, những người mà tham vọng không giới hạn của họ không bao giờ có thể kiểm soát được.
Sử dụng điều này như vào lợi thế của mình, gia tộc Trần đã trỗi dậy nhanh chóng trong Thứ bậc Xã hội Việt Nam về sau này. Ở mọi nơi, Gia tộc Trần đã đạt được hết thành công này tới thành công khác, một thế lực không thể ngăn cản đến mức không mảy may để tâm đến một ý nghĩ thất bại dù là trong khoảnh khắc.
Thực hiện sứ mệnh của mình chủ yếu thông qua Công nghiệp đánh bắt ngay từ đầu, qua thời gian, tham vọng của nhà Trần đã mở rộng sang các lĩnh vực khác của xã hội văn minh. Như vậy, theo thời gian Gia tộc Trần đã trình diễn được bộ mặt tốt đẹp của mình trong mọi khía cạnh của đất nước, đặc biệt là trong Quân đội Hoàng gia.
Tất nhiên, khi triều đại Lý đã rơi xuống bờ vực sụp đổ như số phận của tất cả các đế chế trong lịch sử nhân loại, Gia tộc Trần đã luôn sẵn sàng hành động và chiếm đoạt quyền lực, nhìn thấy cơ hội của họ để làm nên lịch sử và đón nhận một nguy cơ cuối cùng.
Và năm 1225 sCN, một vị tướng của quân đội Hoàng gia tên là Trần Thủ Độ, nổi dậy chống lại đế chế nhà Lý, và buộc Vua Nhiếp Chính chỉ mới 6 tuổi lúc đó, đầu hàng và giao Ngai vàng triều Lý cho người cháu Trần Thái Tông.
Khi điều này được thực hiện, và nhà Lý không còn nữa, Triều đại nhà Trần cuối cùng đã được khai sinh. Và vị vua đầu tiên của Triều đại Nhà Trần của Việt Nam, là cháu trai của vị Tướng Quân; Trần Thái Tông:
Trong lễ nhậm chức của Hoàng đế Trần, ông biết rõ rằng vấn đề cấp bách đầu tiên và quan trọng nhất mà ông nên giải quyết trước là sự thịnh vượng của quốc gia, điều đã bị cho chìm xuống một thời gian cùng với sự suy tàn của nhà Lý. Để khôi phục nền Kinh tế Việt Nam, ông ta đã sắp xếp lại nhiều khoản chi tiêu của chính phủ để tái sinh các hoạt động thương mại ở của triều đình.
Một loại thuế mới đã được đưa ra, và được đánh vào mỗi người dựa trên số đất mà người đó được coi là có. Hoàng đế Trần là người bình đẳng và công bằng, và ông đánh thuế người giàu theo mức độ lớn hơn người nghèo. Người nào càng có nhiều đất đai thì càng có nhiều đóng góp cho sự trẻ hóa của đất nước Việt Nam.
Điều này có nghĩa rằng người giàu phải trả một khoản tiền tương đương với 1000 đô la tiền mặt cho với mỗi 14,400 km2 đất mà họ sở hữu. Ngoài ra, để bảo vệ nền nông nghiệp của đất nước bị tàn phá liên tục vì lũ lụt của sông Hồng, Hoàng đế Trần đã ra lệnh cho việc xây dựng một bộ loạt Đê nhằm điều chỉnh mực nước.
Những người làm việc trong các dự án đã được đền đáp xứng đáng, và cả một bộ phận chính trị đã được tạo ra để giám sát sự xây dựng và bảo dưỡng đi kèm.
Một sơ đồ của một trong nhiều đê đã được tạo ra vào thời điểm đó:
Và do đó, việc đánh thuế nghiêm ngặt đối với người giàu diễn ra dưới cách làm thông minh của Trần Thái Tông, và việc bảo vệ Sản xuất Nông nghiệp của quốc gia, thì nền Kinh tế Việt Nam thực sự lại có thể trỗi dậy từ đống tro tàn, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Với sự thịnh vượng của cả hai, người dân Việt Nam được củng cố và sự giàu có của nền kinh tế tạo nên sự chắc chắn, điều này cho phép Việt Nam bước vào “Thời Kỳ Vàng Son” thứ hai dưới sự giám sát thông minh của nhà Trần.
Sự giàu có của nền kinh tế thời Trần mới thành công tới mức nó cho phép nhà Trần trở nên tự tin với một tiêu chuẩn như vậy, thậm chí bỏ qua một phần học tập từ người hàng xóm truyền thống của họ, triều đại Tống, đặc biệt là về khía cạnh quan trọng nhất của quốc gia; quân đội của họ.
Cờ hiệu Chiến trận Tiêu chuẩn của nhà Trần:
Nhà Tống Trung Quốc láng giềng là một triều đại yên ổn tập trung vào hòa bình, mà họ đã đạt được khi Hoàng đế Tống đầu tiên thông qua “Chính sách Ngăn chặn Văn Võ”, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng của quân đội. Nhà Trần Việt Nam cũng không muốn làm sai lầm như vậy, từ chối sao chép Chính sách Văn Võ ấy và thay vào đó củng cố mạnh mẽ Quân đội Việt Nam.
Toàn bộ quân đội mới được xây dựng, trang bị đến tận răng và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Có lẽ bị ảnh hưởng bởi người tiền nhiệm của họ, triều đại Lý và nhà Lý tương tự cũng bị ảnh hưởng bởi triều đại nhà Đường của Trung Quốc (618 – 907 sCN), Giáp binh, có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử đã được thông qua, tăng cường mạnh mẽ lính Kỵ binh hoàng gia của nhà Trần.
Thật vậy, thay vì thái độ hòa bình của Tống; thái độ khiến cho họ bị thống trị bởi các dân tộc khác nhau ở miền Bắc, dù đó là Khiết Đan, Nữ Chân hay trong tương lai bởi người Mông Cổ, Việt Nam vẫn giữ một chính sách ngoại giao và văn hoá gây hấn, ngoài sự cần thiết (SGK lịch sử ghi khác mà – nd). Sự độc lập của Việt Nam, đã chiến đấu rất nhiều và đã chiến thắng rất nhiều từ trước đến nay, không thể bị nguy hiểm thêm một lần nữa.
Trong khi đó, ở lĩnh vực Nghệ thuật và Văn hoá, nhà Trần đã đạt được những tiến bộ to lớn, điều này chính bản thân nó là một sự hiểu biết khổng lồ. Trên thực tế, ngày nay các chuyên gia Việt Nam nhận xét rằng văn học Trần đã vượt quá cả về số lượng và chất lượng so với văn học nhà Lý. Dưới thời Trần, một thời đại nghệ thuật mới đã phát triển, thường được xem là vô song trong lịch sử Việt Nam trước và sau này, phản ánh sự thịnh vượng của Việt Nam.
Bình gốm Chạm Trổ:
Cửa gỗ Chạm Khắc, Hình Rồng:
Sự thịnh vượng của nhà Trần, mặc dù được thể hiện rõ qua sự phức tạp trong nghệ thuật của họ, những lại không thể đi xa trong lĩnh vực Khoa học và Công nghệ, nơi những thành tựu của Việt Nam đạt đến giới hạn chưa từng bị phá vỡ ở Việt Nam trước đây.
Cuốn Y khoa nổi tiếng “Nam Dược Thần Hiệu” được xuất bản lần đầu tiên trong thời kỳ nhà Trần, trong đó có 499 bản thảo về các loại thảo mộc địa phương, có 10 ngành chữa trị với 3932 đơn thuốc để trị 184 loại bệnh. Do đó, uy quyền tối cao của Việt Nam có thể nói là rõ ràng.
Sau nhiều năm suy tàn theo triều đại nhà Lý, cuối cùng Việt Nam đã ổn định trở lại dưới Chế độ giám sát Mới, đó là Gia tộc nhà Trần. Họ đứng ngạo nghễ, triều đại của họ được đảm bảo, trong khi quốc gia này vẫn thịnh vượng, hoàn toàn thuyết phục rằng không còn tồn tại một mối đe dọa nào có thể gây bất ổn cho đất nước. Tuy nhiên đó là ý nghĩ không bao giờ có thể thực sự có được.
________________________________________
Lời mở đầu của Chương III
Và như vậy, lúc đó là thời điểm giữa sự hỗn loạn, chết chóc và sự tàn phá vào thế kỷ 13, hai nền văn minh, một kẻ du cư và những người làm nông nghiệp khác, chắc hẳn đã đến gặp mặt nhau lần đầu tiên trong lịch sử lâu dài của họ. Mặc dù điều đó có thể đã xảy ra gián tiếp 1000 năm trước trong thời kỳ Chiến tranh Hán-Hung Nô (133 tCN – 89 sCN), nhưng chưa bao giờ được xác nhận trực tiếp cho đến bây giờ.
Một trong những nền văn minh này, có sức mạnh và lớn, kết thúc 40 triệu linh hồn và 3 nền văn minh lớn, địa ngục bị tàn phá không thương tiếc, háo hức gây chiến tranh và sở hữu một thái độ quân sự đặc biệt mà không ai sánh kịp trên thế giới vào thời đó.
Với nguồn gốc tự hào từ phía bắc hùng vĩ, Đế quốc của Thảo nguyên tiến tới dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt, cháu trai của Thành Cát Tư Hãn, thống lĩnh vĩ đại của các Bộ tộc Mông Cổ. Những kẻ du mục mạnh mẽ, vượt trội hơn trên các cánh đồng lớn, với sự yêu thích sự chiến đấu một cách vô cớ trên lưng ngựa, tai họa của các nền văn minh, họ đã sẵn sàng cho chiến tranh:
Trong khi đó nền văn minh còn lại đã tồn tại ở xa tận phía nam, được khai hóa và tinh vi, nhưng cũng chết chóc như nhau bởi họ đã chiến đấu lâu dài dưới sự cai trị từ các triều đại Trung Quốc khác nhau. Giàu có một cách đáng ngạc nhiên, và cũng khôn ngoan và gần như không kém phần bình đẳng, là triều đại nhà Trần Việt Nam, dẫn đầu bởi Gia Tộc Trần bí ẩn và đầy tham vọng, những người không biết về sự tồn tại của một từ như thất bại.
Gia tộc nhà Trần, dù gốc gác nước ngoài, đã thành công trong việc bắt đầu một cuộc sống mới ở nước láng giềng Việt Nam, những kiến trúc sư của một thế giới mới đã đứng dậy sẵn sàng, sẵn sàng bảo vệ ngôi nhà mới của họ khỏi cái chết nào đó sẽ xảy ra. Do đó họ cũng đã sẵn sàng chiến tranh:
Chỉ có một người có thể mãi mãi cai trị, nhưng cả hai đều được sinh ra để thống trị.
Do đó, vào năm 1257 sCN, Mông Cổ cố gắng đàm phán với Vương quốc Phật giáo yếu đuối Đại Lý (937-1253 sCN) gần đó, dẫn họ đến một cuộc gặp chính thức với nhà Trần.
Các đại sứ Mông Cổ đã tiếp cận Triều đình Hoàng gia Trần và yêu cầu Hoàng Đế trao cho họ quyền thông hành qua Đại Việt vì nó vẫn được gọi là “Đại Nam”, để tấn công triều Tống Trung Hoa từ phía Nam, cho phép họ đánh Trung Quốc từ 2 hướng cùng một lúc.
Khi nhà Trần từ chối, người Mông cổ đương nhiên không vui vẻ gì. Và trong năm sau, họ trở lại Đế chế nhà Trần với toàn bộ quân đội đi kèm. Định dạy cho những kẻ mà họ coi là một đất nước “thua kém” một bài học khi dám can dự vào sự vượt trội của Mông Cổ, họ đã bối rối khi thấy rằng thực tế, chinh phục Việt Nam không hề dễ dàng như mong đợi.
Vì khi quân Mông Cổ xâm lược Đế chế nhà Trần, họ đã gặp phải sự phản kháng dữ dội từ Quân đội Hoàng gia, những người sử dụng Tượng Binh vì mục đích của mình, từ đó giết chết nhiều lính Mông Cổ trong quá trình này. Tuy nhiên người Mông Cổ đã học được một cách nhanh chóng và có thể thắng thế khi họ tập trung chủ yếu vào việc bắn một loạt các mũi tên vào gót của những con thú hung dữ này.
Theo truyền thống lịch sử Việt Nam, Việt Nam thường xuyên sử dụng Voi chiến nhiều lần trong lịch sử lâu đời của mình, một nét đặc trưng Việt Nam rất độc đáo khi ở các Vương quốc Ấn Độ ở gần Đông Nam Á cũng sử dụng Voi Chiến. Hình ảnh dưới đây là bức tranh về việc sử dụng voi Chiến Thế của Hai Bà Trưng (12-43 sCN) để cố gắng hất cẳng đế quốc Hán Trung Quốc (206 tCN – 220 sCN) 2.000 năm trước:
Cuối cùng, nhà Trần đã bị đánh bại dưới tay người Mông Cổ, giống như nhiều lần trước đây với các dân tộc văn minh khác mà trước đó đã bị chinh phục.
Trong khi đó, Gia tộc Trân Việt Nam rút lui về một hòn đảo ngoài khơi, vì quân xâm lược nhanh chóng chiếm được thủ đô Thăng Long của nhà Trần (tiếng Việt Nam từ “Rồng Bay Lên”, ngày nay được biết đến đơn giản là “Hà Nội”). Khi người Mông Cổ đến Thăng Long, họ phát hiện ra rằng nhiều người Mông Cổ đã bị người Việt Nam bỏ tù, và thực tế một người đã chết trong khi bị bắt.
Tức giận đến điên cuồng, người Mông Cổ tàn sát mọi người đàn ông, đàn bà và trẻ con, và không tha cho ai, trong khi Quân đội Việt Nam bị buộc phải trốn tránh, không thể can thiệp, thay vào đó họ nhìn một cách vô vọng từ xa, thất bại và nhục nhã.
Thật may mắn, chưa bị mất tất cả, Mông Cổ là một dân tộc Thảo Nguyên quen chiếm đoạt những vùng khô và lạnh, trong khi đó triều đại Trần Việt Nam lại ẩm ướt, nóng và đầy muỗi. Và sau đó, Mông Cổ buộc phải rút lui và không thể tiếp tục chiến dịch chống lại Việt Nam, và thay vào đó họ buộc phải giải quyết một mối quan hệ chư hầu về việc cống nạp, nước đó đã hứa sẽ gửi nhiều món quà cho Thành Cát Tư Hãn mỗi năm.
Việt Nam đã nổi lên thành công, nhưng họ đã trả giá đắt cho nó với nhiều cuộc sống, và cũng là sự mất mát của Thủ đô. Sự việc trở nên tồi tệ hơn khi mọi người đều nhận ra rằng họ chỉ thắng vì những ảnh hưởng của tự nhiên.
Hậu quả của chiến tranh chống lại Mông Cổ đối với Việt Nam thực sự là khủng khiếp, tất cả những tiến bộ trong 30 năm tồn tại của triều đại Trần Việt Nam cho tới nay vẫn là gần như không còn lại gì (nhiều giả thuyết cho rằng, nhà mình có truyền thống, cứ thời này lên thì sẽ phá hủy gần hết những gì mà thời trước làm được, nên nói là do Mông Cổ cũng chưa chắc – nd). Người Mông Cổ đã lấy đi hết mọi thứ, và bây giờ người Việt Nam không còn gì nữa, tất cả những hồ sơ lịch sử quan trọng đã biến mất. Những Trạng nguyên bị giết hại, quân đội suy tàn và mọi hi vọng biến mất mãi mãi.
Tượng của Hoàng đế đầu tiên của triều đại tiền Lý; Lý Thái Tổ, Lý Hoàng đế huyền thoại đã chọn Thủ đô Việt Nam đương đại là Hà Nội (sau đó gọi là Thăng Long như đã nêu trước đó), đương nhiên ông cũng là một người mà người dân Việt Nam kính trọng:
Không có lựa chọn nào khác ngoài việc đứng lên, người dân Việt Nam đã làm điều đó: bắt đầu lại, và thật không may mắn lại là từ đống gạch vụn. Tuy nhiên, họ bao giờ nghĩ rằng tất cả rồi sẽ tốt đẹp. Hoàng đế hiểu được ý nghĩa của cuộc tấn công của Mông Cổ, ông biết rằng nếu Việt Nam không đánh bại họ về mặt quân sự thì họ sẽ không nghi ngờ gì về việc họ sẽ quay trở lại.
Điều khôn ngoan hiện nay là chuẩn bị và đặt tất cả các nguồn lực thuộc về Nhà nước và của người dân vào việc chỉ đạo nỗ lực chuẩn bị cho cuộc xâm lược Việt Nam của quân Mông Cổ lần Thứ hai sắp xảy ra. Khi Mông Cổ đến, Việt Nam sẽ sẵn sàng.
________________________________________
Chương III: “Triều đại phản công”: Chiến dịch của Việt Nam nhằm chống lại quân Mông Cổ không có lòng thương xót
Trong những năm đen tối và hỗn loạn sau Cuộc xâm lăng Mông Cổ đầu tiên, toàn bộ thế giới văn minh dường chuyển sang một trang tồi tệ hơn.
Nhà Tống Trung Quốc, người bạn tốt lâu năm của nhà Trần Việt Nam đã thất bại hoàn toàn dưới sức mạnh của Mông Cổ vào năm 1279 sCN. Khi hàng triệu người Tống bị tấn công, thì người dân Việt Nam thời Trần lại hoảng loạn hơn bao giờ hết. Họ biết, và đúng là đế chế Việt Nam sẽ là phạm vi tiếp theo của Mông Cổ.
Tất cả những năm đó, họ biết sự thật rằng một ngày nào đó, đế chế Thảo nguyên sẽ trở lại, và lần này, sẽ không ai còn sống để nhìn thấy bình minh ngày hôm sau. Hàng ngàn người, trong đó những người Việt, sẽ chắc chắn chết.
Tuy nhiên, chưa hẳn đã mất tất cả trong những năm dẫn đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của nhà Tống Trung Quốc, người Việt Nam đã được chuẩn bị. Sau khi cảnh giác từ cuộc xâm lăng Mông Cổ đầu tiên, Hoàng đế khi đó được giới thiệu với một thanh niên trẻ tài năng và thông minh tên là Trần Hưng Đạo, vị vua đã đã cực kỳ thích thú với ông đến mức ông tin rằng Trần nên có một vị trí đặc biệt trong Hội đồng Quân đội, như một người cực kỳ quan trọng.
Ngày nay, không ai biết chính xác Hoàng đế đã nhìn thấy gì vị tướng Trần Hưng Đạo trẻ tuổi, nhưng có một điều chắc chắn là ông đã cố gắng thúc đẩy ông Trần một cách khôn ngoan lên vị trí uy tín là Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia Việt Nam, ban cho ông sức mạnh không giới hạn để mang lại hạ gục Vó ngựa Thảo nguyên bằng bất kỳ cách nào có thể nếu cần thiết. Đó là một trong những lựa chọn khôn ngoan nhất trong lịch sử nhân loại, việc này có thể chắc chắn.
Một bức tượng của Trần Hưng Đạo ở Việt Nam hiện nay:
Không may người Việt Nam đã đúng, Mông Cổ đã thực sự trở lại vào năm 1285 sCN. Theo lệnh của Hốt Tất Liệt, các Sứ giả Mông Cổ một lần nữa đi lên cầu thang của Cung điện Hoàng gia, và lao vào triều nhà Trần để làm rõ yêu sách của họ, những đòi hỏi đã từng bị thể chúng chắc chắn sẽ bị từ chối, chỉ hành động để niêm phong số phận của Đế chế nhà Trần, như một đất nước đã sớm trở thành một vùng đất chết chóc và đau khổ.
Để đáp lại sự tra tấn dữ dội dành cho sứ giả của họ, người đã bị gửi về cho họ với một mũi tên trong hốc mắt, những người Mông Cổ cực kỳ tức giận đã vội vã chạy xuống Đế chế vĩ đại Phía Nam, sẵn sàng để tiêu diệt tất cả những người dám đứng chống lại họ, với một hành động trả đũa kiên định.
Khi nghe đến mối đe dọa sắp xảy ra đó là Đế Quốc Mông Cổ, người dân Việt Nam bắt đầu sợ hãi cực độ. Việt Nam không phải là một quốc gia lớn, thực ra nó chưa bao giờ là một quốc gia như vậy, và cũng không bao giờ có thể chống lại một lực lượng bất khuất như Mông Cổ, ít nhất cũng khó có thể thành công. Một cuộc trưng cầu dân ý lớn đã được tổ chức khi Hoàng đế thẳng thừng thông báo cho người dân về những nguy hiểm sắp xảy ra mà giờ đây đang đe dọa tiêu tốn nguồn lực của toàn bộ quốc gia.
“Chúng ta nên chiến đấu hay đầu hàng?” Hoàng đế Trần Thánh Tông hỏi khi đã được thuyết phục rằng người dân Việt Nam vẫn luôn can đảm như mọi khi đương nhiên sẽ đồng ý bảo vệ nhà của họ, như tổ tiên của họ đã nhiều lần trước … nhưng ông đã sai.
Thay vào đó, mọi người lại tràn ngập nỗi sợ hãi, không ai dám thách thức sức mạnh của Đội quân Thảo nguyên. Tất cả hy vọng đã mất đi, 28 năm họ đã chuẩn bị, và bây giờ, trong thời điểm quan trọng nhất này, liệu họ có sẵn sàng sẵn sàng từ bỏ tất cả?
Thật đáng xấu hổ khi một hành động hèn nhát như vậy sẽ xảy ra với đế chế nhà Trần trong thời kỳ tuyệt vọng của nó. Trần Hưng Đạo, nguyên Tổng Tư lệnh, đã tiếp chuyện vị Hoàng đế yếu đuối và sau đó đưa ra bài phát biểu sau đây, thường được nhớ đến như một trong những cuộc đối thoại lịch sử vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam:
“Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sỉ mà không biết thẹn! Thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức! Tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm; Hoặc lấy việc chọi gà làm vui-đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con… nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo-giáp? Mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân-mưu? Vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao? Tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai.
Tất cả chúng ta, ngươi và ta, sẽ bị bắt làm tù binh… Khi bấy giờ chẳng những là thái-ấp của ta không còn, mà bổng-lộc của các ngươi cũng hết. Chẳng những là gia-quyến của ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy. Chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi, mà gia-thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục. . . Thử hỏi: Đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui-vẻ, phỏng có được hay không?” – Hịch Tướng sĩ của Đại Tướng quân Trần Hưng Đạo của Đại Việt
Khi bài diễn văn kết thúc, chỉ có một điều bất ngờ, thời gian cho sự hèn nhát đã đến và đi. Nếu người Việt Nam vẫn còn thiển cận để bỏ lỡ cơ hội bảo vệ đất nước của họ khỏi sự tàn phá tàn bạo, thì họ không còn là người Việt Nam nữa.
Bất cứ người con trai hay con gái thật sự nào của Việt Nam chắc chắn không bao giờ có thể dâng ngôi nhà của họ cho kẻ thù ngoại bang, hàng triệu người đã chết trong suốt lịch sử, tất cả đã sẵn sàng để bảo vệ nhà cửa của mình chống lại tất cả mọi thứ, bây giờ là thời gian để tiếp tục truyền thống này, và cũng để đấu tranh cho tự do của người Việt Nam.
Và như vậy, để đáp lại bài hịch của Trần Hưng Đạo, người dân Việt Nam vang dội với tiếng gào: “Chúng thần sẽ chiến đấu, và nếu phải chết, dù chết không từ!!!”
Quân đội Việt Nam đã tập hợp lại với nhau, dưới sự lãnh đạo khôn ngoan của Tướng Trần Hưng Đạo, họ đã chuẩn bị không chỉ cho cuộc chiến, mà còn cho cả chiến thắng. Đã quá chậm trễ rồi, đây thực sự là thời điểm để đất nước thực sự phản công lại.
Được lãnh đạo bởi tướng Trần Hưng Đạo, Việt Nam bây giờ không chỉ có khả năng đánh bại Mông Cổ mà còn vượt trội hơn kẻ xâm lược phương Bắc từ mọi hướng.
Điều này đặc biệt rõ ràng khi lực lượng Mông Cổ xâm chiếm Thủ đô Thăng Long một lần nữa, ngoại trừ thời điểm này không giống với lần cuối cùng, họ chẳng tìm thấy ai. Sau khi nghe tin về cuộc tấn công Mông Cổ sắp tới, nhà Trần không chỉ rời bỏ thành phố, mà còn cố ý đốt cháy lương thực và đồ tiếp liệu của họ, để không cho quân Mông Cổ dùng bất cứ thứ gì.
Do đó, khi người Mông Cổ bắt đầu theo đuổi quân đội của Trần ở phía Nam, quân đội không chỉ bắt đầu trở nên mệt mỏi vì khí hậu lạ đặc trưng của các nước nhiệt đới, mà còn nhanh chóng phát hiện ra rằng họ thiếu các nguồn cung.
Bản đồ mô tả lực lượng Mông Cổ ở Việt Nam trong cuộc xâm lược thứ hai:
Không biết rằng họ đã rơi vào cái bẫy của nhà Trần, những người Mông Cổ bất hạnh vẫn bước tiếp, quyết tâm bắt kịp Quân đội Việt Nam. Điều này đã lên đến mức khi họ bắt kịp quân đội đối phương, hàng ngàn lính Mông Cổ đã chết vì nạn đói, bệnh tật và mệt mỏi, bao gồm cả Tư lệnh Mông Cổ Toa Đô.
Cuối cùng quan sát thấy người Mông Cổ đã mệt lử, quân Trần nảy bẫy. Quân đội Hoàng gia phục kích những kẻ xâm lăng du mục trong một loạt các cuộc phục kích khác nhau dọc theo mặt sông. Hoàn toàn bị choáng ngợp, người Mông Cổ đã bị mất cảnh giác, tinh thần của họ nhanh chóng xấu đi, họ vội vã trở về Nhà Nguyên Trung Quốc.
Thật không may, quân Trần cũng đã lường trước được động thái này, và đến mức này, họ cũng đã bố trí nhiều toán lính của quân đội lên các tuyến đường dẫn về Trung Quốc, nơi mà người Mông Cổ bị quấy nhiễu, và tiếp tục giết chết khi quay về Đại Đô (Bắc Kinh).
Và do đó, Cuộc Xâm Lăng Việt Nam lần Thứ hai của Mông Cổ đã kết thúc với thất bại. Tuy nhiên, sự khác biệt này là do người Việt Nam đã đánh bại người Mông Cổ đúng cách, thay vì để mặc cho tự nhiên can thiệp như lần trước.
Một bức tranh về Hoàng Thành Thăng Long:
Khi tin về sự thất bại của Mông Cổ đến với người dân Việt Nam, cả đất nước vui mừng. Cuối cùng, họ đã thấy được sự thật: Cuối cùng thì Mông Cổ không phải là bất khả chiến bại, thực tế là họ có thể bị đánh bại, và lần sau khi họ trở lại, người Việt Nam đã quyết tâm đảm bảo rằng họ sẽ không bao giờ ước là họ đã được sinh ra. Tính ưu việt của Việt Nam bây giờ là nhật lệnh.
Khi tin về thất bại của quân Nguyên đến Đại Đô, Hốt Tất Liệt đã rất tức giận. Ông nhấn mạnh, làm thế nào một đất nước nhỏ như Đại Việt đánh bại đế chế Toàn cầu Mông Cổ, đó chắc chắn là một điều không thể. Nổi giận dữ dội, chỉ gần 2 năm sau vào năm 1287, một đoàn quân500 ngàn người Mông Cổ được đưa tới Đại Việt, để tuyên bố trả thù họ trước nhà Trần phiền hà của Việt Nam.
Không giống như cuộc xâm lược thứ hai, người Mông Cổ ban đầu đã thành công lần này. Các tỉnh cực bắc đã bị Mông Cổ chinh phục dưới sự chỉ huy của Hoàng tử Thoát Hoan khi đánh bại một tướng khác của Việt Nam; Trần Khánh Dư. Tuy nhiên, sự thất bại này như thường lệ chỉ đơn thuần là một sự chuyển hướng có chủ đích, và thay vào đó đã tỏ lòng tôn kính chiến lược gia thời Chiến trận của Trung Quốc là Tôn Tử và chiến lược “phao chuyên dẫn ngọc” của ông (dùng cái lợi nhỏ để dụ quân địch vào bẫy, lục lại đủ 36 kế mới tìm được kế này… – nd).
Khánh Dư chỉ đang giả vờ thua cuộc, giờ đây ông tập hợp lại lực lượng của mình và sau đó cắt đứt đường dây nguồn cung của Mông Cổ, cùng lúc trong khi Trần Hưng Đạo lặng lẽ chiếm lại các tỉnh bị mất của Việt Nam. Người Mông Cổ, nhận ra rằng tất cả những nỗ lực của họ là vô ích, một lần nữa chuẩn bị rút lui, khí hậu và các bệnh dịch ở vùng cận nhiệt đới Việt Nam lại một lần nữa làm họ bị ảnh hưởng.
Muốn nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, Mông Cổ đã chiếm Thủ Đô Thăng Long lần thứ ba, và cũng giống như cố gắng trước đó, họ thấy rằng một lần nữa, Trần Hưng Đạo đã lường trước được tình huống này, và thành phố một lần nữa lại trống vắng, không có bất kỳ người hoặc nguồn cung cấp nào.
Đã học từ những sai lầm của mình, người Mông Cổ tập trung tại một nơi ở miền Bắc Việt Nam, tên là sông Bạch Đằng, nằm dưới đây:
Thật không may cho người Mông Cổ, tất nhiên Trần Hưng Đạo đã dự đoán được động thái này một lần nữa. Học lại từ lịch sử, tướng Trần đã sao chép các chiến thuật của Ngô Quyền, người đã sử dụng một bộ chiến thuật nào đó để đánh bại Vương quốc Nam Hán, vị tổng tư lệnh của Việt Nam lúc bấy giờ.
Một lần trong quá khứ, Ngô đã đánh bại Trung Quốc bằng cách đặt hàng trăm cọc gỗ nhọn ở vùng nước cạn của sông Bạch Đằng.
Lý do đằng sau việc này không chỉ là để nhằm ngụy trang các cọc như gỗ tròn, nhưng cũng đồng thời với sự hiểu biết của Ngô Quyền rằng với thủy triều xung quanh sông sẽ dao động hàng ngày như vậy, bất cứ con tàu nào trong khu vực, sẽ bị hút vào các cọc, và thân tàu sẽ bị đâm thủng bởi các khúc gỗ, từ đó làm đắm bất cứ hạm đội xâm chiếm nào, đánh chìm các thủy thủ của họ và do đó giành chiến thắng.
Một bức vẽ về trận Bạch Đằng của Ngô Quyền (một vị tướng được yêu mến khác của Việt Nam) (938 sCN) từ 340 năm trước, thắng lợi của nó đã cho phép Việt Nam được tự do sau 1000 năm Bắc thuộc:
Đương nhiên, với ý tưởng tuyệt như vậy của Ngô, Trần Hưng Đạo đã sẵn sàng đánh trận với sự nhiệt tình cực độ. Và khi Hải quân Mông Cổ đã được gửi đi dọc theo bờ biển Bạch Đằng vào năm 1288 sCN, thì Việt Nam đã sẵn sàng. Khi Hạm đội Mông Cổ tiến gần Bạch Đằng, họ đã gặp một lực lượng có vẻ nhỏ của Quân đội Hoàng gia và Hải quân Việt Nam.
Hai bên đã chiến đấu trong một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng sắc bén, khi đó người Việt đã “thua” và rút lui. Trong một khoảnh khắc vinh quang và phấn khởi trước viễn cảnh cuối cùng đã đánh bại được Việt Nam, người Mông Cổ theo sát kẻ thù của họ, sẵn sàng giết đến người Việt cuối cùng, và vì thế, họ rơi trực tiếp vào cái bẫy của quân Trần.
Từng chiếc tàu quân Nguyên Mông bị đâm thủng bởi các cọc gỗ mà lính của Trần Hưng Đạo đã dựng nên, phần lớn trong số 500 hạm đội Mông Cổ mạnh mẽ đã bị bóp méo. Và trong khi điều này xảy ra, lực lượng chính của Việt Nam bị giấu khỏi trận đánh trước đây, bây giờ đột nhiên xuất hiện cùng một lúc, như thể đã được phát tín hiệu để đi ra.
Được trang bị tên lửa, Quân đội Việt Nam đã bắn hàng nghìn mũi tên vào với những chiếc tàu mắc cạn của Hải quân Mông Cổ.
Chỉ trong một khoảnh khắc, một trận bão lửa lớn ập đến toàn bộ sông Bạch Đằng, và 80.000 ngàn người Mông Cổ sống cùng với 400 tàu Mông Cổ, chỉ mất vài giây, hoàng tử Thoát Hoan đã sống sót nhờ chui vào ống cống gần đó. Người Mông Cổ không có cơ hội, mặc dù họ cố chiến đấu tới người cuối cùng, nhưng thực tế vẫn là bất cứ sự kháng cự nào, cuối cùng đều là vô ích.
Bức vẽ về Hạm đội Mông Cổ đang bị thiêu trụi, trong khi quân đội chiến thắng của Hoàng gia đứng nhìn:
Vào cuối ngày, chỉ có những người Việt Nam đứng vững một cách vẻ vang trước Đế quốc Thảo Nguyên từng bất khả chiến bại trước đây. Chỉ có Việt Nam trong cả lục địa Âu Á, đã từng thành công trong việc đánh bại Mông Cổ một cách công bằng, không có sự can thiệp của thiên nhiên. Chỉ có người Việt Nam mới là những bậc thầy vĩ đại của thế giới.
Cuối cùng, Việt Nam đã bình an, và sau trận đánh, Trần Hưng Đạo được khen ngợi vì sự lãnh đạo độc nhất của ông trong việc chống Đế quốc Mông Cổ. Sau khi qua đời, Gia tộc Hoàng gia Trần đã ban cho ông danh hiệu “Tổng Tư Lệnh Quân Đội Hoàng Gia”.
Chiến thắng vinh quang này sẽ đảm bảo cho truyền thống của Việt Nam được tiếp nối, nhắc nhở mọi người dân trên khắp 7 biển, 3 đại dương và 4 cực của thế giới, rằng bất cứ điều gì đều là có thể, tất cả những gì một người phải làm để thực hiện giấc mơ này chỉ đơn giản là cố gắng hơn nữa, và kiên trì dù có những trắc trở không mong muốn, dù cho kẻ dòm ngó có là ai.
Không có chỗ cho sự trốn tránh, chỉ có lòng can đảm. Không có sự đầu hàng, chỉ có chiến thắng. Đó là cách của người Việt Nam, một cách thức mà mọi nền văn minh cần phải nhớ mãi đến tận thế.
Một tượng đài được xây để tôn vinh Trần Hưng Đạo, dành cho các lực lượng dũng cảm của dân tộc Việt Nam khi đối mặt với cái chết chắc chắn khi chiến đấu chống lại Vó ngựa của quân Nguyên-Mông:
________________________________________
Kết luận
Kết thúc của Cuộc Chiến đánh dấu cao trào của cuộc xâm lược của Mông Cổ lần thứ ba, và cái kết của Cuộc xâm lược lần thứ 3 này đánh dấu sự chấm dứt chế độ chuyên quyền Mông Cổ ở Việt Nam mãi mãi. Chiến đấu dũng mãnh, giành được thắng lợi, độc lập của Việt Nam được minh chứng là đúng cho đến tận 119 năm nữa khi nó bị chinh phục lại bởi Đế quốc Minh (1368-1644 sCN).
Hôm nay, Trần Hưng Đạo vẫn là một anh hùng được kính trọng không chỉ của nước CHXHCN Việt Nam (1945-ngày nay), mà còn của hàng triệu người Việt Nam trên khắp thế giới. Nhiều tuyến đường được đặt theo tên của ông, và nhiều tượng đài được xây dựng để tôn vinh ông.
Vì đây là một thực tế, hãy nói cho tôi biết đi bạn, tất cả điều đó liệu có đáng không?
Tuy nhiên tôi cho rằng, Trần Hưng Đạo cũng như nhiều người Việt Nam khác, đơn thuần là một trong số rất nhiều Anh hùng Quốc gia Việt Nam. Tôi nghĩ là có hàng ngàn người, nhưng mỗi anh hùng của Việt Nam không may thường chỉ là anh hùng chiến tranh, hoặc là các vấn đề võ thuật khác.
Điều đáng tiếc nhất là chúng ta hãy xem xét 2.269 năm cuối cùng của lịch sử Việt Nam. Trong số những năm đó, có 1474 năm được dành để chiến tranh Nội chiến hoặc chống lại sự chiếm đóng và xâm lược của Trung Quốc, Pháp, Nhật hoặc Mỹ. Với điều này, cần phải rõ ràng rằng trong 2 thiên niên kỷ cuối Việt Nam chỉ tận hưởng khoảng 800 năm hòa bình hoàn toàn và độc lập hoàn toàn.
Lịch sử Việt Nam được xem là một trong những nỗi đau và bi kịch lớn lao, đó là lý do tại sao người Việt Nam có rất nhiều anh hùng, vì khi cuộc sống của quốc gia bị đe doạ, tại sao không nên có quá nhiều cá nhân sẵn sàng bảo vệ nó bất chấp cái chết?
Dù rất quan trọng, Trần Hưng Đạo chỉ là một trong số rất nhiều anh hùng dân tộc của Việt Nam, tất cả đều quan trọng như nhau, không ai quan trọng hơn người kia. Do đó, cần phải nói rằng có lẽ toàn bộ lịch sử trong suốt 2 thiên niên kỷ vừa qua của Việt Nam là một niềm tự hào lớn cho tất cả các dân tộc Việt Nam ở mọi nơi.
Trong vấn đề này, hãy làm rõ cho bất kỳ ai ở bất cứ đâu, rằng một thực tế đơn giản như vậy nên được ghi nhớ mãi mãi.
