Những bữa tiệc. Những lời cười đùa. Những lúc vui vẻ tràn đầy nhiệt huyết. Tôi đều có cả, nhưng hầu hết đều là do tôi cố gắng thể hiện, cố gắng lôi cái điều ấy ra bên ngoài. Những người bạn, họ luôn chỉ nhìn thấy một cô bé hay cười, hay đùa, và nhìn trông kia thì có vẻ cô bé này rất hoạt náo, năng động. Tôi trở thành cái người mà tôi thích gọi là “bình thường” kia, để mình không bị gạt ra khỏi cái xã hội thu nhỏ mà tôi đang sống. Tôi sợ những ánh mắt, những lời hỏi mang đầy tính châm chọc, tôi ghét cái bản thân mà lúc nào cũng giấu nhẹm những suy nghĩ của mình đi, rồi sau những buổi gặp mặt tôi kiệt sức. Kiệt sức vì phải cười, phải nói, phải trở nên “bình thường”. Tôi từng không hiểu vì sao mình lại khác thường như thế. Tôi sợ khi cảm thấy mình khác biệt, nhưng rồi tôi được bạn bè yêu quý hơn, chỉ vì cái sự khác biệt ấy.
Từng có một người bạn nói với tôi rằng tôi là một đứa rất triết lí, như một nhà hiền triết cụ non vậy, và nói rằng đấy cũng là điều khiến cậu ta chú ý tới tôi, vì tôi đặc biệt. Tôi bật cười trước cái cụm ví von đấy của cậu bạn tôi, và tôi nhận ra rằng tôi không bị ghét bỏ vì tôi là một hiền triết cụ non, lúc ấy tôi cảm thấy mình rất hạnh phúc. Cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái nét xanh ngắt mùa hạ khi mà từng giọt nắng chảy tràn trên kẽ lá. Hoá ra, niềm vui khi được yêu lấy bản thân là như thế.
Tôi thích những lần ngồi một mình ở quán cà phê, được đọc một cuốn sách, được xem những bộ phim, tôi thích cuộn mình trong tấm chăn ấm và dày để nghe tiếng nhạc Jazz từ chiếc loa cổ lỗ của mình, hoặc chỉ đơn giản là ngồi vuốt ve con mèo nhà tôi cho tới khi lông mèo dính đầy quần áo.
Rồi tôi nhận ra rằng cái cụm “trở nên bình thường” đối với tôi là được yêu chính bản thân tôi, được làm điều tôi thích, được khóc khi tôi muốn, được cười thật thoải mái như một đứa con nít nhận kẹo hay được làm một nhà hiền triết cụ non. Yêu và được yêu – với tôi đấy là cách tôi cảm thấy bình thường nhất.
