QUANG THỤC HOÀNG THÁI HẬU: BẬC MẪU NGHI THIÊN HẠ TÀI ĐỨC VẸN TOÀN…
Phu quân: Lê Thái Tông
Tại vị: Tiệp dư (1440-1442)
Thái hậu (1460-1496)
Quang Thục Hoàng Thái hậu tên húy là Ngô Thị Ngọc Dao, là vợ vua Lê Thái Tông, mẹ vua Lê Thánh Tông và là bà nội của vua Lê Hiến Tông. Theo những ghi nhận của các đại thần thời bấy giờ qua văn bia thì Thái hậu có công với cả ba vị hoàng đế này. “Đối với Thái Tông thì có sự chuyên cần lo lắng phò tá, đối với Thánh Tông thì có công dưỡng dục dạy bảo, đối với Thánh thượng (Hiến Tông) thì có tình thương yêu”. Đặc biệt bà là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông, luôn kề vai sát cánh cùng Thánh Tông trong quá trình cai trị đất nước, giáo hóa nhân dân, đưa đất nước đến thời kỳ đại trị.
Hoàng Thái hậu người ở Yên Định, Thiệu Thiên, Thanh Hóa. Thân phụ húy là Từ, giữ chức Tuyên phủ sứ Thái từ Thiếu bảo Quan nội hầu, được tặng Chương Khánh công, gia tặng Ý Quốc công; mẹ họ Đinh, húy là Ngọc Kế, được tặng Ý Quốc thái phu nhân, Hoàng Thái hậu là con gái thứ ba của hai cụ. Bà ngoại họ Trần, húy là Ngọc Huy, là hậu duệ của một nhân vật nổi tiếng triều Trần là Tá Thánh Thái sư Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Như vậy, Hoàng Thái hậu được sinh ra từ một dòng họ cao quý và chắc hẳn đã được thừa hưởng một sự chăm sóc và giáo dục tốt đẹp từ dòng họ này.
Thái hậu sinh ra đã có tư chất cao quý thuần hóa, thiên tư cẩn thận, luôn luôn cần kiệm, không thích xa hoa, may vá thêu thùa chẳng rời tay, cỗ bàn cơm rượu rất biết cách, lúc nhàn rỗi cũng nghiêm trang như tiếp tân khách, đối xử với mọi người luôn giữ vẻ ôn hòa. Khi còn nhỏ cha mẹ mất sớm, bà được nuôi nấng ở nhà bà ngoại. Huyền thoại từng có dị nhân đi qua nhà nhìn thấy Thái hậu đang chơi với lũ trẻ hàng xóm thì bảo với mọi người rằng “ Đứa trẻ này ngày sau sẽ trở thành mẹ thiên hạ ”. Nói xong người ấy biến mất. Đó là điềm tốt. Năm 16 tuổi, Ngô Thị được tuyển vào cung làm phi tần. Bà có giọng nói dễ nghe, nết na lại hợp khuôn phép. Đối với bậc trên đúng lễ độ, tiếp kẻ dưới có ân tình nên được Lê Thái Tông rất sủng ái.
Năm 1440, bà được phong Tiệp dư, ngự ở cung Khánh Phương. Tuy nhiên, khi được sách phong, theo lễ được phép ở hẳn tại cung Khánh Phương nhưng bà cho rằng cung này Lê chiêu nghi đang ở nên không nỡ chiếm lấy mà cố từ chối, khiến cho Thái Tông và cận thần rất nể phục.
Sống trong cung bà luôn nết na hiền dịu, ai cũng yêu quý. Vậy nhưng, đám hoạn quan ghen ghét tâu lên vua rằng bà mang thai 12 tháng mà vẫn chưa sinh, theo các truyền thuyết kể con của bà là con nhà trời, nên thời gian mang thai kéo dài hơn hạ giới. Vua khép vào tội chết, bà bị trói ở Tây cung chờ phút giây hành quyết. May có người can ngăn nên bà thoát chết trong gang tấc, nhưng nhà vua ra lệnh giam bà ở chuồng ngựa. Sau lần thoát chết ấy, bà còn gặp họa bởi Thần phi Nguyễn Thị Anh ghen ghét, tâu lên vua rằng Ngọc Dao liên quan đến vụ Huệ phi Lê Nhật Lệ và có âm mưu hại Thái tử, nghe xong vua định bắt Ngọc Dao cho voi giày, nhưng nữ quan Nguyễn Thị Lộ, vợ Nguyễn Trãi đứng ra can ngăn nên một lần nữa bà thoát chết. Vợ chồng Nguyễn Trãi đưa bà rời khỏi cung lánh nạn tại chùa Huy Văn (nay ở phố Hàng Bột – Hà Nội). Bà sinh ra hoàng tử Tư Thành ở sau chùa. Khi Lê Tư Thành chưa đầy tháng tuổi, thì vua cha Lê Thái Tông qua đời. Biết Nguyễn Thị Anh vẫn âm thầm cho người dò la tin tức nên Nguyễn Trãi đã đưa bà về chùa Yên Tử (Quảng Ninh) sống ẩn dật.
Sau đó, không may Nguyễn Trãi lại rơi vào vụ án oan Lệ Chi Viên, bị tru di 3 họ. Bà Ngọc Dao được cậu là Đinh Liệt bí mật đưa về An Lão (nay thuộc huyện Vũ Thư, Thái Bình) sống và nuôi con. Gần 20 năm, mẹ con bà được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, thời gian này Lê Tư Thành sống, lao động cùng những người dân nên học tập được những đức tính tốt đẹp, ông thấy rõ những vất vả, khổ cực, lầm than của trăm họ. Chính vì vậy, sau này ông lên làm vua đã có nhiều quyết sách sáng suốt hợp với lòng dân, động viên, tập hợp được sức mạnh toàn dân, đưa đất nước lên giai đoạn thịnh vượng nhất.
Mùa đông năm 1459, Lê Nghi Dân gây biến. Hoàng thái hậu Nguyễn Thị và Nhân Tông hoàng đế bị giết hại. Lê Tư Thành được cải phong làm Gia vương, bà tiếp tục làm Sung viên phụng thở Thái miếu, vẫn sống bình yên cùng con trai trong cung.
Năm sau, các đại thần trong triều làm binh biến giết chết Lê Nghi Dân. và đưa Gia vương lên ngôi, tức Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông tôn mẹ làm Thánh mẫu Hoàng thái hậu, ở điện Thừa Hoa.
Bà luôn lấy đức cần kiệm để giáo hóa thiên hạ, dùng điều khoan hậu để khuyên bảo quan gia, cung kính tông miếu, thờ phụng quỷ thần, điều không đúng lý không làm, việc mà bất chính không đoái. Bà là người nghiêm nhưng không ác, giản dị mà đàng hoàng, chăm chỉ tuân theo lễ pháp, rất ít ra khỏi phòng riêng. Thường ngày Thái hậu rất năng thờ Phật thờ Đạo, tuy tuổi tác cao nhưng rất chăm làm việc thiện, sống nhân ái bao dung, không tự tư tự lợi, luôn quan tâm giúp đỡ mọi người, khiến cho trong cung không kẻ sang người hèn nào không gọi là Phật sống. Vàng lụa được ban cấp đều đem ban phát cho mọi người, thường thương xót chu cấp cho người nghèo, hòm rương luôn trống rỗng chẳng có gì tích trữ làm của riêng.
Công lao lớn nhất của bà Ngô Thị Ngọc Dao đối với xã tắc bấy giờ là đã nuôi dạy con trai trở thành vị vua anh minh, tài lược lưu danh sử sách – Lê Thánh Tông, vị vua quyền lực nhất trong lịch sử Việt Nam. Các sử gia đều đánh giá, Hoàng thái hậu là người phụ nữ giỏi giang, giàu lòng khoan dung, đức độ, có đầy đủ phẩm chất “công, dung, ngôn, hạnh”, xứng đáng ở vị trí hàng đầu các vị Thái hậu Đại Việt. Vốn thông minh lại có học vấn, bà thường quan tâm chỉ bảo Thánh Tông trong công việc cai trị. Thánh Tông Hoàng đế tuy là bậc hùng tài đại lược, thần vũ anh minh nhưng luôn kính cẩn chuyên cần nghe theo lời dạy bảo của Thái hậu.
Thái hậu là người có dáng vẻ khỏe mạnh trẻ trung, xinh đẹp, điều đặc biệt lạ ở bà là tuy già nhưng tóc không bạc, răng không rụng, mắt không mờ, dáng mạo không suy, có vẻ đẹp riêng, chỉ như người chừng 40 tuổi vậy. Điều này có lẽ nhờ một phần ở tinh thần mạnh mẽ, ở sự nhiệt tình với cuộc sống của Thái hậu. Tuổi tác càng nhiều tinh thần càng mạnh, tính vốn hiếu học lại biết làm thơ, bà thường đem thư truyện dạy dỗ con cháu…
Lúc Hoàng thái hậu mới bị mệt nặng, Lê Thánh Tông và Thái tử Lê Tranh ngày đêm chầu chực bên giừơng bệnh, thuốc thang cơm nước tự nếm trước. Trong thì cúng tổ tiên, ngoài thì nghe dân chúng cầu khấn các thần không thiếu nơi nào. Khi Thái hậu không cử động được nữa, không mong cầu được, Thánh Tông tự đặt hiệu mà gọi rồi kêu khóc, Hoàng thái hậu vì thế cố mở miệng muốn nói mà không ra tiếng. Tháng 3 năm 1496, bà mất tại chính tẩm điện Thừa Hoa, hưởng thọ 76 tuổi, ở ngôi Thái hậu 37 năm. Việc khâm liệm, phạm hàm đều do Hoàng đế tự làm, viết điếu văn, đặt quan tài ở điện để viếng, định tháng 10 rước về Sơn Lăng, nhưng Thánh Tông hoàng đế cũng băng hà nên chưa làm lễ an táng được.
Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao được đánh giá là một người phụ nữ giỏi, một mẫu nghi thiên hạ giàu lòng nhân ái khoan dung, đức độ. Bà còn là một người phụ nữ ở ngôi dài nhất trong xã hội nhưng lại ít tham gia việc triều chính, mà chỉ chuyên tâm vào việc tề gia. Bà là tấm gương sáng về đời sống cá nhân và sự chăm sóc gia đình, gia tộc đối với vua Lê Thái Tông; chăm lo giúp đỡ, giáo dục dạy giỗ vua Lê Thánh Tông và cháu là vua Lê Hiến Tông.