CÔNG NỮ NGỌC VẠN – “HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA” THẾ KỶ 17

Công nữ Ngọc Vạn (公女玉萬) tên thật là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn (阮福玉萬) sinh khoảng năm 1605, mất sau năm 1658, là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và Hiếu Văn Hoàng hậu Mạc Thị Giai. 

Ngọc Vạn nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Nàng đẹp đến nỗi mà một số người phương Tây đã phải dùng từ “une grande beaute”, tức là tuyệt sắc giai nhân. Trước khi kết hôn với vua Chân Lạp và trở thành Vương hậu, nàng đã hứa hôn cùng một vị quan trẻ tuổi tuấn tú, văn võ song toàn là Trần Đình Huy, con trai của một dòng dõi anh hùng hào kiệt, gần gũi với chúa Nguyễn.

Xét lại bối cảnh lúc đó, Chân Lạp thường xuyên bị nước Xiêm xâm chiếm. Dù vua Chân Lạp thường xuyên dời kinh đô từ Angkor đi nhiều địa điểm khác nhau nhưng vẫn bị đánh phá và cướp bóc. Vì lý do đó mà các đời vua Chân Lạp rất muốn kết giao với chúa Nguyễn ở Đàng Trong thuộc Đại Việt.

Một thời gian sau, cuộc gặp gỡ giữa đôi bên để bàn đến việc tăng cường mối quan hệ bang giao cũng như thông thương giữa hai nước được vua Chân Lạp tiến hành. Quốc vương Chân Lạp sai sứ bộ mang lễ vật đến, đồng thời chuyển thư ngỏ ý muốn xin hỏi cưới người con gái thứ hai của chúa Sãi là công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Vạn vừa tới tuổi cập kê. 

Trước lời tỏ bày thành kính của vua Chey Chetta II cũng như sự thuyết phục của quân sư Đào Duy Từ, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nhận thấy việc này có lợi cho cả hai bên nên đã đồng ý cuộc hôn phối chính trị này. Dù trong lòng vạn phần không muốn, nhưng vì việc nước trọng đại nên công nữ Ngọc Vạn đành phải gác bỏ tình riêng mà gật đầu đồng ý kết hôn với vua Chey Chetta II.

Ngay sau đó, chúa xuống chiếu ra lệnh cho Công nữ Ngọc Vạn kết hôn với vua Chân Lạp, Chey Chetta II. Vua Chey Chetta II phong cho Ngọc Vạn làm Vương hậu của Chân Lạp với tước hiệu cao quý là Brhat Mae Samdach Brhat Bhagavati Amara Deva Thida. 

Ngay sau đó, mối quan hệ giữa hai nước đã có những chuyển biến tốt đẹp. Vị Vương hậu đã đưa theo nhiều người Việt đến Chân Lạp, trong đó nhiều người may mắn được nắm giữ chức quan quan trọng trong triều đình. Không những vậy, vua Chetta II đã ưu ái cho phép bà lập một xưởng thợ và mở nhiều nhà buôn bán gần kinh đô.

Đặc biệt vào năm 1623, chính nhờ vào sự vận động của bà mà yêu cầu của nhà Nguyễn với Chân Lạp là được lập sở thuế ở Prey Nokor (tức Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) và đặt ở đây một sở thu thuế hàng hóa đã được vua Chey Chetta II chấp thuận. Thậm chí, lợi dụng cơ hội này, triều đình Thuận Hóa còn ra sức khuyến khích người Việt di cư đến đây sinh sống, làm ăn, rồi lấy cớ là giúp chính quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, phái một tướng lãnh đến đóng ở Prey Nokor nữa.

Thế nhưng, những ngày tháng hạnh phúc của Vương hậu không kéo dài được bao lâu thì nhiều biến cố bắt đầu ập đến. Chỉ 8 năm sau khi kết hôn, năm 1628, vua Chey Chetta II băng hà. Ngay lập tức, chính quyền Chân Lạp trở nên khủng hoảng vì việc tranh đoạt ngai vàng. Con của Chey Chetta II với Công nữ Ngọc Vạn là Chau Ponhea To lên kế vị ngôi vua với sự phò tá của người chú là Preah Outey. Tuy nhiên, Chau Ponhea To chỉ mới làm vua được 2 năm thì đã bị Preah Outey giết chết. Sau đó, con thứ 2 của Chey Chetta II với công nữ Ngọc Vạn tiếp tục lên ngôi vua lấy vương hiệu là Ponhea Nu. Chưa dừng lại ở đó, đến năm 1640, biến cố lại ập đến với bà. Vua Ponhea Nu đột ngột băng hà khi còn rất trẻ khiến triều đình lại rơi vào cảnh khủng hoảng.

Mặc dù hai người con đều đã mất nhưng công nữ Ngọc Vạn vẫn giữ chức Thái Hậu. Sau hơn 50 năm trong triều đình Chân Lạp, Thái hậu Ngọc Vạn đã cùng với vua Ang Non trị vì tại vùng đất Sài Gòn ngày nay. Sau đó bà lui về sống ở Bà Rịa và cho xây  chùa Gia Lào tại núi Chứa Chan, Đồng Nai rồi ẩn tu cho đến hết đời.

Cuộc hôn nhân này dù không được sử nhà Nguyễn ghi chép, có thể là vì quá xem trọng quan niệm chính nhân quân tử mà bỏ qua công lao của một người, đặc biệt là một người đàn bà. Tuy nhiên xét đến cùng thì đây là một cuộc hôn nhân chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhờ vào sự kiện này, Chúa Nguyễn đã tạo được chỗ đứng ở phía Nam, đẩy mạnh sự khai phá của lưu dân Việt trên mảnh đất khô cằn mà từ lâu người Chân Lạp vẫn bỏ hoang, đồng thời tạo nên sự ổn định mặt phía Nam để có thể tập trung đối đầu với chúa Trịnh ở phía Bắc…Không thể phủ nhận rằng, công nữ Ngọc Vạn chính là cầu nối trong quan hệ giao hảo Việt –  Miên ở thế kỷ XVII.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *